Cho em hỏi về khác biệt cơ bản giữa ISO và CMMi

Thảo luận trong 'Nơi tập trung về ISO ...' bắt đầu bởi cemetery, 24/8/09.

  1. QUY ĐỊNH DIỄN ĐÀN
    - Đăng bài viết bắt buộc có tiền tố
    - Không đăng bài Quảng Cáo
    - Chỉ được phép đăng bài Tuyển dụng trong lĩnh vực nhân sự, hành chính và liên quan
    - 1 nick chỉ được phép đăng tối đa 2 bài tuyển dụng 1 tuần
    - Bài tuyển dụng bắt buộc phải có thời hạn, và sẽ bị xóa sau khi hết hạn 3 ngày
    ------------------------------
    Liên hệ quản trị diễn đàn: nguyenbaoanh89@gmail.com
    Dismiss Notice
  1. cemetery

    cemetery New Member

    Tham gia ngày:
    22/8/09
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Chào các bác,


    Trong quá trình tích lũy kinh nghiệm chiến đấu, em có va chạm rất nhiều với mô hình CMMI, tuy nhiên lại chưa làm quen với ISO.


    Em đang download 1 số văn bản trong box này, tuy nhiên mong các bác hỗ trợ thêm.


    Vấn đề sử dụng ISO/CMMI ở Việt Nam hiện tại thế nào ạ? ISO thường được sử dụng trong các doanh nghiệp dạng nào?


    Em cảm ơn :x
     
  2. hoakt36

    hoakt36 New Member

    Tham gia ngày:
    8/8/09
    Bài viết:
    82
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Minh thi tim hieu rat nhiu ve ISO nhung chua biet ve CMMI, ban nói rõ hon ve CMMI nha. Minh se theo doi va thao luan voi ban ve 2 mo hinh nay.
     
  3. hoadinh09

    hoadinh09 Thành viên BQT Hồ Chí Minh

    Tham gia ngày:
    29/6/09
    Bài viết:
    334
    Đã được thích:
    3
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    TPHCM
    Bạn tham khảo bài này nha, hy vọng giúp ích cho bạn:


    http://espromote.com/forums/showthread.php?p=306


    Khác biệt giữa ISO 9001:2000 và CMM


    • ISO 9001 là một tiêu chuẩn quốc tế về quản lý, các điều khoản gọi là “yêu cầu” quy định những điểm cần phải làm (what to do), không chỉ ra việc đó nên làm như thế nào (how to do)


    • CMM/CMMi là một mô hình, cung cấp các hướng dẫn và kinh nghiệm thực tế dùng để phát triển, cải tiến và đánh giá năng lực của quy trình.


    • CMMi không phải là một tiêu chuẩn, tùy vào từng tổ chức, cách thực hiện khác nhau rất nhiều


    • Về nguyên tắc, ISO bao gồm (ở mức cao) hầu hết các quy trình chủ chốt của CMM/CMMi, tuy nhiên ISO được dùng cho hầu hết mọi ngành nghề, do vậy không cụ thể và gần gũi với công việc đặc thù có liên quan đến phần mềm như CMM/CMMi. ISO không cung cấp các ví dụ và kinh nghiêm cụ thể như CMM/CMMi
     
  4. cemetery

    cemetery New Member

    Tham gia ngày:
    22/8/09
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Đây là tài liệu về CMMi mà em tổng kết lại được:


    --------


    Giới thiệu về CMMi


    CMMi (Capability Maturity Model® Integration) là một mô hình quản lý chất lượng cho các tổ chức. Nó có thể được sử dụng để định hướng quản lý, định hướng phát triển cho một dự án, một bộ phận của tổ chức hoặc toàn bộ tổ chức đó.


    CMMi được tạo ra và duy trì bởi một nhóm gồm có các thành viên của công nghiệp, chính phủ và Software Engineering Institute (SEI)


    CMMi đưa vào trong mỗi một doanh nghiệp theo từng đối tượng kinh doanh. Các doanh nghiệp không thể tự cấp chứng nhận CMMi. Do đó, doanh nghiệp cần phải được xác định từ cấp độ 1 đến 5. Kết quả thẩm tra này sẽ được đưa ra bởi các tổ chức thẩm tra.


    Lịch sử của CMMI


    CMMi là sự tiếp tục và mở rộng của CMM. CMM được phát triển từ năm 1987 đến năm 1997. CMMI phiên bản 1.1 được phát hành, và tiếp theo sau đó là phiên bản 1.2. Mục tiêu của dự án CMMi là cải thiện sử thích hợp trong việc sử dụng các mô hình chuẩn mực bởi việc kết hợp nhiều mô hình khác nhau thành một cơ cấu hợp nhất.


    Tổ chức chính thức quản lý CMMi ngoài SEI còn có Office of the Secretary of Defense và National Defense Industrial Association.


    Hoàn cảnh


    Vào những năm 1970, có một sự đột phá về công nghệ tạo nên máy tính với sự phổ biến, linh hoạt và rẻ hơn. Các tổ chức bắt đầu nhận vào nhiều hơn các hệ thống thông tin máy tính và khai thác việc gia tăng phát triển phần mềm với mức độ đáng kể. Tín hiệu này là một sự gia tăng đòi hỏi nhiều người phát triển, và người quản lý, với sự thỏa mãn cho kinh nghiệm chuyên nghiệp.


    Không may, sự tràn vào của gia tăng bởi nhiều nguồn; mô hình dự án trở nên tầm thường bởi vì các phần của khoa học máy tính vẫn còn trong trứng nước, nhưng các dự án cũng dần có nhiều tham vọng hơn trong in cân đo và phức tạp. Trong phản hồi đó, những người như Edward Yourdon, Larry Constantine, Gerald Weinberg, Tom DeMarco, và David Parnas đã xuất bản những cuốn sách nghiên cứu tổng kết với cố gắng để chuyên nghiệp hóa quy trình phát triển phần mềm.


    Watts Humphrey's Capability Maturity Model (CMM) đã được mô ả trong cuốn sách Managing the Software Process (1989). Mô hình CMM đã được hình thành trong Watts Humphrey trong việc dựa trên công việc trong thập kỷ này. Phil Crosbuy, người đã xuất bản Quality Management Maturity Grid trong cuốn sách Quality is Free của ông vào năm 1979. Sự phát triển tích cực của mô hình bởi SEI (US Dept. of Defense Software Engineering Institute) bắt đầu vào năm 1986.


    Mô hình CMM khởi đầu như một mong đợi về công cụ để đánh giá khả năng cung cấp của chính phủ cho một hợp đồng dự án phần mềm. Dù cho nó đến từ khu vực của phát triển phần mềm, nhưng nó đã có thể, đã, và sẽ tiếp tục được sử dụng rộng rãi trong các mô hình quản lý. (ví dụ như quy trình IT Service Management) trong tổ chức IS/IT.


    Người đầu tiên đưa ra mô hình quy chuẩn này không phải là CMM/SEI mà là Richard L.Nolan vào năm 1973.


    Sự đánh giá này được cho là tín hiểu bởi một hội thẩm ủy quyền. Một con đường mà trong đó các công ty được cho là sử dụng đầu tiên để quyết định mô hình quy chuẩn và sau đó hình thành nên những kể hoạch rõ ràng để tiến tới cấp độ kế tiếp. Việc bỏ qua cấp độ là không cho phép.


    Công ty "Shrinkwrap" đồng thời được gọi là "COTS" hoặc commercial-off-the-shelf firms hoặc software package firms. Họ bao gồm Claris, Apple, Symantec, Microsoft, và Lotus, cùng những công ty khác. Một số công ty hiếm khi quản lý những tài liệu yêu cầu của họ chính thức như mô hình CMM miêu tả trong cấp độ 2, và tất cả những công ty đó sẽ hầu như chắc chắn quay trở về cấp độ 1.


    Đánh giá của CMMI


    Có ba lớp khác nhau trong việc đánh giá. Đó là lớp A, lớp B và lớp C.


    Trong tài liệu yêu cầu đánh giá cho CMMi (Appraisal Requirements for CMMI - ACR), các yêu cầu cho phương pháp đánh giá được mô tả.


    Standard CMMI Appraisal Method for Process Improvement (SCAMPI) là phương pháp cần thiết trong tất cả các tài liệu ACR. Ba lớp của SCAMPI là A,B và C.


    Lớp A là chính thức và có duy nhất một kết quả đánh giá trả về. Kết quả này có thể được đưa ra bởi SEI trên website của SEI. SCAMPI đồng thời hỗ trợ bởi chuẩn ISO/IEC 15504, cũng có thể hiểu như SPICE (Software Process Improvement and Capability Determination)


    Dòng thời gian phát triển của mô hình CMMi


    1987: SEI-87-TR-24 (Bản điều tra SW-CMM) được phát hành.


    1989: Managing the Software Process.


    1990: SW-CMM v0.2 được phát hành.


    1991: SW-CMM v1.0 được phát hành.


    1993: SW-CMM v1.1 được phát hành.


    1997: SW-CMM được sửa lại để hỗ trợ cho CMMI.


    2000: CMM v1.02 được phát hành.


    2002: CMM v1.1 được phát hành.


    Ngày 01 tháng 11 năm 2007 : CMMi for Acquisition(CMMI-ACQ) v1.2 được phát hành.


    CMMI Acquisition là mô hình CMMi thiết kế để sử dụng trong việc quản lý một chuỗi cung cấp bởi những gì đạt được, thu được, hoặc nói cách khác là lựa chọn và thu lợi từ sản phẩm và dịch vụ cho mục đích kinh doanh. Mô hình này là sự tiếp tục và mở rộng của công việc định nghĩa những hoạt động tốt nhất cho doanh nghiệp, tổ chức thu lợi từ sản phẩm và dịch vụ hoặc phát triển outsource với các hỗ trợ. Mô hình này đã được bắt đầu sử dụng trong sự cộng tác của hai tổ chức General Motors và SEI.


    CMMI-ACQ cung cấp các hướng dẫn có thể đạt được cho các tổ chức trong việc bắt đầu và quản lý lợi nhuận của sản phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Mô hình này tập trung vào các quy trình thu được và kết hợp tổng thể của kiến thức gồm các yếu tốt cần thiết cho việc thu lợi nhuận thành công.


    CMMI-ACQ cung cấp cơ hội cho tổ chức thu lợi:


    Ngăn ngừa hoặc loại trừ các vấn đề trong quy trình thu lợi nhuận xuyên suốt việc cải tiến, hoàn thiện năng suất lao động.


    Bắt đầu và quản lý quy trình trong việc phát triển sản phẩm và dịch vụ. Bao gồm việc môi giới khách hàng, quản lý các nhà cung cấp, hợp đồng và quy định cho mỗi nhà cung cấp, và năng lực quản lý tiềm tàng của các nhà cung cấp.


    Tận dụng ngôn ngữ phổ biến cho cả bên thu lợi và bên cung cấp. Vì vậy, các giải pháp cho chất lượng sẽ được trình bày nhanh hơn với giá thành rẻ hơn với công nghệ thích hợp.


    Trang web chính thức của CMMi và tổ chức phân phối, định hướng cho CMMi : http://www.sei.cmu.edu


    Lợi ích của mô hình CMMi


    Với mô hình CMMi, các doanh nghiệp có thể:


    Có thêm những quyết định rõ ràng, dứt khoát trong việc quản lý và hoạt động cho các đối tượng kinh doanh của họ.


    Giải thích về phạm vi và tầm nhìn trong vòng đời phát triển của phần mềm, cũng như các hoạt động nhằm đảm bảo sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.


    Kết hợp những gì đã có được và cộng thêm vào những thực hành tốt nhất. Ví dụ như cách đo lường, quản lý mạo hiểm, quản lý cung cấp.


    Thực hiện thêm đầy đủ và thuần thục với cách thức làm việc.


    Thêm vào chức năng nhận phê bình từ sản phẩm và dịch vụ của công ty.


    Thêm vào hoàn toàn những điều tuân theo chuẩn ISO.


    Lợi ích cho người quản lý \ người thực hiện


    Những khác nhau rộng rãi và trong kết luận logic mà ta có được sau khi sử dụng CMMi:


    Tận tụy:


    Hiểu được ai là người quan trọng và chia sẻ các thông tin, phạm vi, yêu cầu của dự án.


    Di chuyển từ sự đồng ý không cần đến tác động dàn xếp dựa trên tác động.


    Quản lý:


    Quản lý di chuyển sau sự việc hành động sửa chữa tới đo lường tiêu điểm, thêm những quản lý tiên phong thực hiện xuyên suốt chương trình.


    Yêu cầu là nền tảng cơ bản trong việc lên kế hoạch quản lý.


    Quản lý rủi ro là rõ ràng được sử dụng trong hệ thống và rèn luyện kỹ năng phần mềm.


    Giao tiếp:


    Quản lý tập trung được chuyển từ “giao tiếp là bước thường lệ trong quy trình” sang “giao tiếp là cần thiết để giữ cho quy trình hoạt động”


    Khái niệm về người quản lý được coi như nền tảng của việc giao tiếp mở rộng phạm vi của hoạt động giao tiếp.


    Lợi ích cho người quản lý cấp cao


    Thêm....


    Tập trung vào yêu cầu như là một phần cơ bản của việc lên kế hoạch và thay đổi.


    Các thông tin sớm về rủi ro và vấn đề của dự án.


    Bớt....


    Sự chữa cháy


    Tạo sự nhận định thiếu đầy đủ trong phân tích va chạm.


    Thỏa mãn về sự chữa cháy và ngăn ngừa hành động đó.


    Kết quả trong việc....


    Không nhiều những lá thư/cuộc gọi từ những khách hàng ở ngoài không thỏa lòng với hệ thống.


    Bớt đi những vận chuyển trong việc “cho đến khi vấn đề được giải quyết”


    Thêm nhiều những thứ không thấy được trong năng lực quản lý kế hoạch hệ thống và ngân sách thực hiện.


    Lợi ích cho người quản lý chương trình


    Thêm...


    Bao hàm trong sự hiểu biết về hệ thống và yêu cầu phần mềm và sự ảnh hưởng trên hệ thống của họ.


    Chuỗi những việc có thể trông thấy trong tiến độ dự án.


    Những việc trông thấy trong hệ thống con, hợp đồng phụ.


    Nhìn thấu được những mạo hiểm trong hệ thống con, hợp đồng phụ


    Bớt/không nhiều....


    Các tác vụ lớn, khó kiểm soát


    Lý do hoặc khả năng tạo phương pháo không tốt


    Chấp nhận yêu cầu thay đổi mà không có đầy đủ phân tích thiết kế.


    Cơ cấu tổ chức trước khi có CMM


    Cơ cấu tổ chức sau khi có CMM (hiện tại)


    Cấu trúc của CMM


    CMM bao gồm các thành phần :


    + Maturity Levels: Nó là các lớp cơ cấu tổ chức với điều kiện là một chuỗi các quy tắc được định ra cần thiết để liên kết trong quy trình phát triển phần mềm. Nó rất quan trọng đối với các tổ chức, công ty… cần phát triển năng lực làm việc, khối lượng công việc trong việc rèn luyện, công nghệ hoặc công cụ trong hoạt động. Do đó, nó định nghĩa rõ việc làm thế nào để đạt đến các mức chuẩn, từ đó định giá sản phẩm, định giá năng suất làm việc của công ty. Nó giúp các dự án, các nhóm, các công ty định hướng được việc trình bày hợp lý trong các lựa chọn.


    + Key process areas: Một Key process areas (KPA) được định nghĩa là một nhóm các hoạt động có quan hệ với nhau khi thực hiện chung để hoàn tất mục tiêu quan trọng.


    + Goals: Mục tiêu của một phạm vi khóa quy trình (KPA) tóm tắt tình trạng phải tồn tại của phạm vi khóa quy trình thực hiện đầy đủ với kết quả và quá trình thực hiện dài lâu. Quy mô của mục tiêu đã hoàn thành là cho biết năng lực của tổ chức thiết lập trên các cấp bậc của sự thuần thục. Mục tiêu biểu hiện phạm vị, ranh giới, và mục đích của mỗi khóa quy trình KPA.


    + Common Features: Những điểm đặc trưng chia sẻ bao gồm thực hành và thể chế hóa phạm vi khóa quy trình KPA. Nó bao gồm năm dạng là Commitment to Perform (giao phó đến thực hiện), Ability to Perform (khả năng đến thực hiện), Activities performed (các hoạt động đã thực hiện), Measurement and Analysis (đo lường và phân tích), và Verifying Implementation (thực hiện thẩm tra).


    + Key Practices: Khóa thực hiện mô tả các yếu tố của cơ sở hạ tầng và thực hiện góp phần tạo những hiệu quả thực sự trong việc thực hiện và thể chế hóa khóa quy trình KPA.


    Các cấp bậc trong mô hình CMMi


    + Cấp I – Initial (Khởi đầu)


    Quy trình sản xuất phần mềm có đặc điểm tự phát, thành công chỉ dựa vào nỗ lực của cá nhân hoặc tài năng.


    Ở cấp độ này, quy trình thường là “ad hoc”, và doanh nghiệp thường không cung cấp môi trường phát triển ổn định. Thành công của doanh nghiệp quyết định trên năng lực của cá nhân tài năng trong doanh nghiệp và không thuộc các quy trình đã chứng minh. Trong việc không làm theo thể thức, sự hỗn loạn, với cấp độ này, doanh nghiệp thường sản xuất ra sản phẩm phần mềm và dịch vụ; tuy nhiên, họ thường xuyên vượt quá dự thảo ngân sách và kế hoạch làm việc của dự án.


    Các doanh nghiệp trong cấp độ này được mô tả như đặc trưng của xu hướng hoạt động với quy trình tự do, không lặp lại những quy trình thành công.


    + Cấp II – Repeatable [Managed] (Lặp)


    Các quy trình quản lý dự án cơ bản được thiết lập để kiểm soát chi phí, kế hoạch và khối lượng hoàn thành. Các nguyên lý về quy trình cơ bản được hình thành nhằm đạt được thành công như những phần mềm tương tự.


    Trong cấp độ 2, những thành công trong quản lý chất lượng sản phẩm được lặp lại. Các quy trình có thể không lặp lại toàn bộ trong dự án của công ty. Công ty có thể sử dụng một vài chương trình quản lý dự án cơ bản để đưa ra giá thành và kế hoạch dự án.


    Các quy trình rèn luyện giúp đỡ việc bảo đảm các thực hiện được giữ lại trong suốt thời gian của hoạt động. Khi mà thực hiện nằm đúng vị trí, các dự án sẽ được tiến hành và quản lý theo tài liệu kế hoạch.


    Tình trạng của dự án và sự phân phát dịch vụ là nhìn thấy được đến quản lý tại điểm định nghĩa (ví dụ, tại giai đoạn nhiều và tại giai đoạn hoàn thành tác vụ).


    Các quy trình quản lý dự án cơ bản đã thiết lập được giá thành, kế hoạch cũng như chức năng. Các quy trình nhỏ nhất cũng được thực hiện lại sớm nếu như thành công trong dự án với những phần mềm và phạm vi giống nhau. Nó vẫn có thể vượt quá sự mạo hiểm và tính toán ước lượng.


    + Cấp III – Defined (Xác lập)


    Quy trình phần mềm cho các hoạt động quản lý cũng như sản xuất được tài liệu hóa, chuẩn hóa và tích hợp vào quy trình phần mềm chuẩn của nhà sản xuất. Các dự án sử dụng quy trình phần mềm hiệu chỉnh được phê duyệt dựa trên quy trình chuẩn của nhà sản xuất để phát triển và bảo trì sản phẩm phần mềm.


    Một phần của tổ chức của một quy trình căn bản, là cơ bản cho cấp độ 3, được thiết lập và cải tiến theo thời gian. Những quy trình căn bản đã được sử dụng để thiết lập tính vững chắc kéo dài trong tổ chức. Dự án được thiết lập bởi những quy trình do họ định nghĩa bằng cách thêm vào các thành phần quy trình căn bản, nghiêm chỉnh, nếu cần thiết, trong thời gian tiêu chuẩn hóa giống nhau của chỉ đạo.


    Hệ thống quản lý của tổ chức thiết lập quy trình đối tượng cho hệ thống quy trình căn bản của tổ chức và bảo đảm rằng các đối tượng đó thích hợp với địa chỉ.


    Khoảng cách giữa cấp độ 2 và cấp độ 3 là phạm vi của tiêu chuẩn, miêu tả quy trình, và thủ tục. Tại cấp độ 2, tiêu chuẩn, miêu tả quy trình và thủ tục có thể có khác biệt nhỏ trong mỗi đặc trưng, ví dụ của quy trình (ví dụ, trên mỗi dự án tham gia). Tại cấp độ 3, tiêu chuẩn, miêu tả quy trình và thủ tục cho một dự án for a project đã được tính toán từ quy trình tiêu chuẩn của tổ chức tới dự án liên quan hoặc thành phần của công ty.


    + Cấp IV – Quantitatively Managed (Kiểm soát)


    Thực hiện đo lường chi tiết quy trình phần mềm và chất lượng sản phẩm. Cả quy trình sản xuất và sản phẩm phầm mềm được kiểm soát theo định lượng.


    Sử dụng đo lường rõ ràng, quản lý có thể có những quản lý hiệu quả cho sự nỗ lực phát triển phần mềm. Trong trường hợp đặc biệt, quản lý có thể nhận dạng cách để điều chỉnh sửa lại quy trình cho phù hợp với các dự án đặc biệt mà không cần đo lường chất lượng hoặc chênh lệch trong đặc tả. Tổ chức tại cấp độ này đặt mục tiêu về chất lượng cho cả quy trình phần mềm và bảo trì phần mềm. Các quy trình con được lựa chọn phải truyền đạt góp phần tới toàn thể sự thực hiện của quy trình. Những quy trình con đã được lựa chọn sẽ quản lý bởi tiêu chuẩn và các định lượng kỹ thuật. Sự khác nhau giữa cấp độ 3 và cấp độ 4 khả năng đoán trước việc thực hiện của quy trình. Tại cấp độ 4, việc thực hiện của quy trình là có thể kiểm soát bởi tiêu chuẩn và định lượng kỹ thuật, và là định lượng có thể đoán được.Tại cấp độ 3, các quy trình chỉ đoán được chất lượng.


    + Cấp V – Optimizing (Tối ưu)


    Quy trình liên tục được cải tiến dựa trên những ý kiến phản hồi từ việc sử dụng quy trình, thí điểm những ý tưởng quản lý và công nghệ mới.


    Cấp độ 5 tập trung vào việc cải thiện liên tục các thực hiện của quy trình trong suốt quá trình lớn lên và phát triển, đổi mới công nghệ. Quy trình phát triển chất lượng đối tượng của tổ chức được thiết lập, tiếp tục duyệt lại để phản ánh những thay đổi trong đối tượng kinh doanh, và sử dụng như tiêu chuẩn trong quy trình phát triển quản lý. Những hiệu quả của việc trình bày quy trình phát triển đã nhịp nhàng và đánh giá tương phản với định lượng của quy trình phát triển đối tượng. Cả hai định nghĩa quy trình và tiêu chuẩn quy trình của công ty là mục tiêu của hoạt động đo lường phát triển. Quy trình phát triển tới địa chỉ thêm bởi sự biến đổi của quy trình và dao động phát triển trong quy trình của tổ chức đã được định nghĩa, đánh giá và triển khai.


    Tối ưu quy trình là nhanh nhẹn, thích hợp và đổi mới quyết định dựa trên sự tham gia của người thừa hành lực lượng lao động sắp theo giá trị kinh doanh và đối tượng của tổ chức. Khả năng nhận thấy của tổ chức nhanh chóng được phản hồi để thay đổi với cơ hội là làm tăng giá bởi việc tìm ra cách tăng nhanh và chia sẻ kinh nghiệm.


    Khoảng cách khác nhau giữa cấp độ 4 và cấp độ 5 là ở dạng của sự biến đối địa chỉ trong quy trình. Tại cấp độ 4, các quy trình có liên quan tới một địa chỉ đặc biệt bởi vì sự biến đổi của quy trình và điều kiện tiêu chuẩn có thể đoán trước của kết quả. Trong suốt quy trình, có thể thủ tục đoán trược được kết quả, kết quả này có thể không đủ đạt được việc thiết lập đối tượng. Tại cấp độ 5, các quy trình liên quan đến nhiều địa chỉ chia sẻ bởi biến đổi của quy trình và thay đổi này (sự thay đối, có nghĩa như thực hiện một quy trình) để phát triển thực hiện quy trình (trong khi duy trì những tiêu chuẩn có thể xảu ra) giành được thiết lập định lượng cho quy trình phát triển đối tượng.


    Mở rộng thêm


    Một phiên bản từng tồn tại trước đây của CMMI từ SEI trình bày sơ qua về “cấp độ 0”, được mô tả như là "không đầy đủ". Một số người giám sát đã bỏ cấp độ này ra như là một sự không cần thiết, rườm rà hoặc không quan trọng, nhưng Pressman và những người khác thì chú ý về nó.


    Tổng kết


    Các tổ chức và con người tham gia khởi tạo và duy trì CMMi


    U.S. Army, Navy, Air Force


    Federal Aviation Administration


    National Security Agency


    Software Engineering Institute


    ADP, Inc.


    AT&T Labs


    BAE


    Boeing


    Computer Sciences Corporation


    EER Systems


    Ericsson Canada


    Ernst and Young


    General Dynamics


    Harris Corporation


    Honeywell


    KPMG


    Lockheed Martin


    Motorola


    Northrop Grumman


    Pacific Bell


    Q-Labs


    Raytheon


    Reuters


    Rockwell Collins


    SAIC


    Software Productivity Consortium


    Sverdrup Corporation


    TeraQuest


    Thomson CSF


    TRW
     
  5. Tean

    Tean New Member

    Tham gia ngày:
    4/5/09
    Bài viết:
    36
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Đó là lý thuyết vậy còn kinh nghiệm thực tiễn ? Bạn có biểu mẫu hay giấy tờ gì về thực tế bạn đang làm không bạn ?
     
  6. hoadinh09

    hoadinh09 Thành viên BQT Hồ Chí Minh

    Tham gia ngày:
    29/6/09
    Bài viết:
    334
    Đã được thích:
    3
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    TPHCM
    Bạn tham khảo thêm thông tin này:


    FPT Software tặng không cẩm nang CMMi-5


    ICTnews - Hôm nay, ngày 20/8, FPT Software đã bàn giao gói đầu tiên bộ tài liệu kinh nghiệm xây dựng, áp dụng và thi lấy chứng chỉ CMMi-5 cho cộng đồng CNTT Việt Nam.


    Đây là nội dung trong thỏa thuận đã ký giữa Công ty Cổ phần Phần mềm FPT (FPT Software) với Bộ TT&TT. Theo đó, FPT Software sẽ chuyển giao bộ tài liệu kinh nghiệm xây dựng, áp dụng và thi lấy chứng chỉ CMMi-5 cho cộng đồng CNTT Việt Nam thông qua Vụ Công nghệ thông tin, Bộ TT&TT.


    Theo FPT Software, bộ tài liệu CMMI-5 này gồm 3 gói: bộ tài liệu, hệ thống phần mềm và bộ cài đặt. Ngày 20/8, FPT Software đã trao bộ tài liệu cho Vụ Công nghệ thông tin, Bộ TT&TT. Hai gói sau đó sẽ được bàn giao lần lượt vào tháng 11 và tháng 12/2009.


    Sau khi nhận bàn giao gói đầu tiên của bộ tài liệu CMMi-5 này, Bộ TT&TT sẽ gửi thông báo tới các hiệp hội, các doanh nghiệp CNTT và các đơn vị có nhu cầu có thể liên lạc trực tiếp với Vụ Công nghệ thông tin để nhận miễn phí bản sao đĩa CD chứa tài liệu.


    Với bộ tài liệu này, các doanh nghiệp có thể tham khảo để biết được các yêu cầu của tiêu chuẩn CMMI 5 và ISO 9001: 2008 được phản ánh cụ thể vào tài liệu áp dụng trong một tổ chức là như thế nào. Các doanh nghiệp cũng có thể dựa trên đó để thiết lập bộ tài liệu của tổ chức mình. Đặc biệt, các doanh nghiệp có thể sử dụng lại phần biểu mẫu trong bộ tài liệu này.


    FPT Software cho biết bộ cẩm nang kinh nghiệm xây dựng và triển khai CMMi mức 5 này gồm hơn 2.500 trang tài liệu, được FPT Software xây dựng và hoàn thiện trong thời gian 8 năm.


    CMMI (Capability Maturity Model Integration) là một mô hình trưởng thành cải tiến quy trình dành cho việc phát triển sản phẩm và dịch vụ. Mô hình bao gồm các bài thực hành tốt nhất (best practice) liên quan đến các hoạt động phát triển và bảo dưỡng sản phẩm hoặc dịch vụ trong suốt quá trình từ lúc có yêu cầu cho đến khi bàn giao và bảo dưỡng, bảo hành.


    CMMI cung cấp một nền tảng mà từ đó các công ty phát triển phần mềm có thể liên tục tối ưu hóa chất lượng quản lý, phát triển và phân phối các sản phẩm. Nó được chia thành 5 cấp tương ứng với 5 mức độ trưởng thành về năng lực trong hoạt động sản xuất phần mềm.
     
  7. Huyhr

    Huyhr Cộng tác viên

    Tham gia ngày:
    28/8/08
    Bài viết:
    72
    Đã được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Văn phòng Luật sư Nam Sài Gòn
    Bạn nào cần tài liệu CMMi thực tế liên hệ với mình, mình có trọn bộ, mình tự đánh giá là khá hay. Email của mình: chenhuy2003@yahoo.com.
     

Chia sẻ trang này

Share