Marketing

Thảo luận trong 'TIN THỊ TRƯỜNG NGUỒN NHÂN LỰC' bắt đầu bởi gấu kon online, 18/7/08.

  1. QUY ĐỊNH DIỄN ĐÀN
    - Đăng bài viết bắt buộc có tiền tố
    - Không đăng bài Quảng Cáo
    - Chỉ được phép đăng bài Tuyển dụng trong lĩnh vực nhân sự, hành chính và liên quan
    - 1 nick chỉ được phép đăng tối đa 2 bài tuyển dụng 1 tuần
    - Bài tuyển dụng bắt buộc phải có thời hạn, và sẽ bị xóa sau khi hết hạn 3 ngày
    ------------------------------
    Liên hệ quản trị diễn đàn: nguyenbaoanh89@gmail.com
    Dismiss Notice
  1. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Mình thấy forum này có vẻ chưa đuợc quan tâm nhiều. Vậy nên mình post bài này, như 1 lời giới thiệu về Marketing cho mọi nguời tham khảo. mong nhận được nhiều đóng góp của các bạn. thanks.


    Marketing là gì?


    Tại sao marketing là thiết yếu đối với doanh nghiệp?


    Kế họach thị trườngTrong thập niên qua, nền kinh tế thế giới đã thay đổi một cách mạnh mẽ dưới sức ép của tòan cầu hóa, sự phát triển vũ bão của công nghệ và sự mở cửa của các thị trường mới.


    Toàn cầu hóa là một cơ hội phát triển kinh doanh mà các tập đòan lớn trên thế giới không thể bỏ qua, bởi họ có lợi thế về nguồn lực và là người đi trước họ có lợi thế thông qua việc đặt ra luật chơi.


    Sự phát triển của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, đã xóa đi mọi rào cản về không gian và địa lý. Khách hàng giờ đây có nhiều quyền hơn trước đây. Nhờ vào công nghệ họ có thể tiếp cận thông tin về sản phẩm tốt hơn, từ đó họ có nhiều sự lựa chọn hơn.


    Công nghệ cũng đã giúp rút ngăn thời gian mà một ý tưởng cần có để thể trở thành một sản phẩm sẵn sàng phục vụ người tiêu dùng. Trước đây trong một năm các hãng xe hơi chỉ có thể đưa ra một kiểu mới. Ngày nay họ có thể giới thiệu ra thị trường thậm chí 5,6 kiểu xe mới trong một năm. Mặt khác, công nghệ cũng đã đặt ra một thách thức cho các doanh nghiệp: tuổi thọ của sản phẩm trên thị trường bị rút ngắn. Nếu trước đây người ta sử dụng một chiếc điện thọai di động trong thời gian 2-3 năm là chuyện bình thường, thì đối với giới trẻ ngày nay, nếu sau một năm mà bạn không thay đổi điện thọai di động thì đó là chuyện lạ.


    Do thị trường Châu Âu, Mỹ đã phát triển đến giai đọan bão hòa và ổn định, các tập đòan lớn cần phải tìm kiếm thị trường mới để duy trì tốc độ phát triển của mình. Việt Nam nằm trong số bốn nước được các tập đòan lớn quan tâm: Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam.


    Từ chỗ sân ai nấy đá thành sân chung mà mọi người ai muốn đá cũng vào đá được, tòan cầu hóa đã thay đổi bản chất của họat động kinh doanh, từ chỗ tập trung sản xuất ra sản phẩm tốt nhất, rẻ nhất có thể được, doanh nghiệp đã phải dịch chuyển sự chú tâm của mình ra thị trường. Đơn giản là vì họ muốn khách hàng tin dùng và mua sản phẩm của họ hơn là của đối thủ cạnh tranh. Và để làm được việc đó doanh nghiệp cần phải hiểu nhu cầu của khách hàng tốt hơn, họ cần truyền thông tốt hơn về sản phẩm của họ, và họ cần xây dựng quan hệ gắn bó lâu dài giữa thương hiệu với nhóm đối tượng khách hàng mục tiêu. Chính vì những lý do trên, marketing ngày càng trở nên một chức năng quan trọng trong các doanh nghiệp.


    Nhưng marketing không chỉ là một chức năng trong hoạt động kinh doanh, nó là một triết lý dẫn dắt toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong việc phát hiện ra, đáp ứng và làm thoả mãn cho nhu cầu của khách hàng.


    Doanh nghiệp cần phải biết làm thế nào để xác định và phân khúc thị trường, xây dựng giải pháp hấp dẫn để chào cho khách hàng, và xây dựng thương hiệu với định vị mạnh. Họ phải biết làm thế nào để làm giá cho giải pháp của mình một cách hấp dẫn và hợp lý, và làm thế nào để chọn và quản trị kênh phân phối để đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng một cách có hiệu quả. Họ cần phải biết làm thế nào để quảng cáo và giới thiệu sản phẩm của mình, để khách hàng biết và mua. Không chỉ thế, họ cần phải biết áp dụng chiến lược thị trường và phương pháp quản trị phù hợp với thực tế thị trường đầy kỹ thuật mới trong xu hướng toàn cầu hoá.


    Bộ phận chuyên trách marketing, có cần hay không?


    Có người nói rằng không nhất thiết phải có một bộ phận chuyên trách marketing để làm công việc phân tích thị trường, lập kế hoạch và kiểm soát các khâu liên quan. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ, hoạt động không đa dạng nơi mà giám đốc đã có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về nhu cầu khách hàng. Ngay cả đối với các công ty lớn, cũng không cần phải có một phòng marketing, bởi vì sản phẩm thì đã có các kỹ sư quản lý, giá cả thì phòng tài chính-kế toán quản, việc phân phối hàng đã có nhân viên chuyên trách lo, và việc bán hàng cũng như là quản cáo đã có giám đốc bán hàng lo.


    Cách tiếp cận như vậy thật là nguy hiểm. Các nhà kỹ thuật thường chỉ chăm chút vào khía cạnh vật chất của sản phẩm, các cô kế toán thường quan tâm đến giá thành hơn là giá trị thị trường của sản phẩm, các nhân viên giao hàng thường đặt ưu tiên tối ưu hoá việc quản lý hàng hoá, trong khi lại không quan tâm lắm về dịch vụ khách hàng vốn quan trọng hơn, và việc bán hàng cũng như thúc đẩy bán hàng thường được thực hiện không phải theo cách tốt nhất nhằm đạt mục tiêu chung của doanh nghiệp.


    Muốn hay không muốn, do số lượng sản phẩm và thị trường của doanh nghiệp ngày càng phát triển, và do áp lực cạnh tranh cũng như yếu tố bất ổn định của môi trường kinh doanh ngày càng tăng, doanh nghiệp cần phải tổ chức việc quản lý hoạt động marketing tập trung, nếu không sẽ đi đến chỗ nguy hiểm là doanh nghiệp sẽ sản xuất ra sản phẩm mà về góc độ kỹ thuật thì tuyệt vời, nhưng lại là một tai hoạ về góc độ thương mại.


    Định nghĩa Marketing theo tổ chức Hiệp Hội Marketing Mỹ:


    Định Nghĩa năm 2004


    "Marketing is an organizational function and a set of processes for creating, communicating and delivering value to customers and for managing customer relationships in ways that benefit the organization and its stakeholders."


    Định Nghĩa năm 2007:


    “Marketing is the activity, conducted by organizations and individuals, that operates through a set of institutions and processes for creating, communicating, delivering, and exchanging market offerings that have value for customers, clients, marketers, and society at large.”


    Đỗ Hòa - http://www.marketingchienluoc.com
     
  2. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Hiện nay, do sự phát triển của Internet ngày càng cao nên các doanh nghiệp đã tận dụng những tiện ích của Internet để tăng hiệu quả công việc. Email là một trong những tiện ích lớn giúp doanh nghiệp mở rộng mối quan hệ hợp tác & thị truờng. Hi vọng bài viết sau sẽ giúp các bạn phần nào về việc tận dụng những tiện ích của email. Cám ơn các bạn nhiều. Rất mong nhận đuợc sự ủng hộ của các bạn


    Nguồn tin: Marketing Vietnam


    Là một marketer online, mỗi ngày bạn có thể gặp nhiều vấn đề liên quan đến việc gửi email. Dù bạn gửi email cá nhân hay những thông tin nhằm tiếp cận khách hàng, những tin nhắn điện tử này thường bị lọc do bị xếp vào spam – thư rác và sau đó lại bị gửi trả về với lí do là không thể gửi được.


    Đối với việc trao đổi thư từ qua lại bình thường không có tính thương mại, thì đây chỉ là một vấn đề gây phiền toái và bất tiện nho nhỏ. Nhưng khi tin nhắn của bạn lại đang chuyển đi một thông điệp quan trọng hoặc khẩn cấp, và nếu trong đó chứa những hoá đơn hay các bản thanh toán tiền gấp rút, hoặc những thông tin dịch vụ, bạn sẽ có nguy cơ đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng.


    Nếu bạn là một marketer, cứ mỗi tin nhắn không chuyển được sẽ làm bạn mất đi một phần lợi tức.Thế nhưng vài cách sau đây có thể giúp cho việc chuyển phát thông tin của bạn và giảm thiểu khả năng rơi vào các truờng hợp trên.


    Mấu chốt của việc chuyển phát email trên mạng là việc đặt lòng tin của của bạn vào các nhà cung cấp dịch vụ Internet, hay ISP. Vì những công ty này cần cung cấp những dịch vụ có chất lượng cho khách hàng, họ đặt ra những tiêu chuẩn giao thức và các quy tắc liên quan đến thư rác.


    Để giao tiếp với khách hàng của bạn mà không có bất kì trở ngại nào, bạn nên tập trung vào 5 tiêu chí quan trọng sau để tối ưu hoá tỉ lệ thành công trong việc chuyển phát thông tin.


    1. Lưu ý đến danh sách của bạn


    Điều này có liên quan như thế nào? Bạn chỉ nên thêm người nhận thông qua các chương trình opt - in , xoá bỏ những tài khoản bị gửi trả về và những yêu cầu không người nhận ngay lập tức. Không bao giờ phân phát theo những danh sách đã lỗi thời hoặc đã được mua. Nhiều bản danh sách đã được mua chứa đựng các bẫy spam hoặc các địa chỉ hấp dẫn, mục đích để lừa và bắt giữ những kẻ phát tán spam.


    2. Duy trì các khiếu nại ở mức độ thấp


    Người nhận có cần những tin nhắn của bạn không? Mỗi lần khách hàng than phiền với các nhà cung cấp dịch vụ Internet của họ, sẽ dẫn đến việc giảm đi khả năng chuyển phát thông tin.


    Một số những ISP phổ biến bao gồm AOL, Yahoo và Hotmail phản hồi lại những lời khiếu nại này rất đơn giản chỉ bằng 1 cái click chuột vào spam. Biết được họ đã nhận được bao nhiêu lời khiếu nại từ khách hàng là điều rất quan trọng.


    Quá trình khiếu nại có thể được tự động hoá, bằng cách những nhà cung cấp dịch vụ tiếp thị email sẽ loại bỏ những người khiếu nại trong danh sách và tổng hợp những dữ liệu đó trong các bản báo cáo.


    Tuy nhiên, bạn nên cố gắng tránh những khiếu nại. Để giảm thiểu tối đa những khiếu nại, hãy để người nhận biết bạn là ai bằng cách điền tên công ty của bạn trên mục “from”, sử dụng đề tài rõ ràng và thích hợp, và chuyển phát thông tin theo 1 lịch trình đã định sẵn.


    3. Chuyên nghiệp:


    Những tin nhắn bạn gửi nói lên điều gì về công ty của bạn? Nâng cao chất lượng nhãn hiệu và danh tiếng của công ty bạn bằng cách gửi đi những thông tin email được thiết kế tốt, có tổ chức và thích hợp. Phân đoạn những danh sách được chuyển đi và sắp xếp thông tin bất cứ khi nào có thể. Bạn cũng nên chắc chắn rằng tên miền cho các trang quảng cáo có thể cung cấp địa chỉ Whols công khai và chính sách bảo mật được liên kết rõ ràng.


    4. Sử dụng chức năng xác thực email.


    Lợi dụng các kĩ thuật xác thực email, điển hình là việc sử dụng Sender Policy Framework (SPF), đây là hệ thống tổ chức cung cấp các tiêu chuẩn mở, phương pháp kĩ thuật để ngân chặn các địa chỉ email giả.


    5. Tạo danh tiếng


    Những hoạt động bạn đã từng làm nói lên điều gì về bạn?. Để tạo nên một danh tiếng vững chắc trong những trường hợp này cần thời gian, và bằng một cách duy nhất là gửi những email hợp pháp bằng những cách thực hiện tốt nhất.


    Gửi email hợp pháp, làm sạch danh sách và những khiếu nại. Chắc chắn rằng các dịch vụ email của bạn được thiết lập với những địa chỉ IP riêng để các hoạt động tiếp thị bằng email của bạn chỉ ảnh hưởng đến danh tiếng của chính bạn.


    Khi đã theo sát những chiến lược cực kì chủ động trong việc tiếp thị qua email, bạn nên sử dụng các công cụ báo cáo kết quả trong phần mềm tiếp thị email của mình để đánh giá toàn bộ công việc.


    Khi bạn tìm thấy các ISP đặc biệt đang ngăn chặn và phá hoại việc giao tiếp của mình dù bạn đã thực hiện các bước trên, ngay lập tức hãy tiếp xúc ngay với họ để giải quyết vấn đề và xin danh sách tiếp nhận.


    Những lợi ích của việc tiếp thị bằng email là không thể phủ nhận được. Với những nỗ lực không mệt mỏi, các marketer có thể phát huy đáng kể khả năng chuyển phát email tiếp thị, và có thể đạt được những kết quả quan trọng trong công việc.


    Marketingvietnam theo lantabrand
     
  3. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Có thể nhiều doanh nghiệp rất quen thuộc với công việc marketing :rolleyes: . Tuy nhiên để xây dựng đuợc một kế hoạch marketing hiệu quả thì không đơn giản. Mình thấy bài viết này rất hay & muốn chia sẻ cho mọi nguời. Hi vọng mọi nguời sẽ thấy bổ ích :p. Rất mong nhận đuợc sự đóng góp ý kiến của mọi nguời :rolleyes: :blink: . thx so much:


    Chiến lược công ty và chiến lược marketing


    Kế họach kinh doanh


    Tùy vào đặc điểm kinh doanh và qui mô hoạt động, mỗi doanh nghiệp có thể có một qui trình xây dựng kế hoạch marketing khác nhau. Có thể rất đơn giản, chẳng hạn như do một người phát thảo một kế hoạch duy nhất, rồi trình ban giám đốc phê duyệt như trường hợp các doanh nghiệp nhỏ có hoạt động thị trường đơn giản. Cho đến vô cùng phức tạp và có nhiều người, nhiều phòng ban chức năng cùng tham gia xây dựng và xây dựng nhiều kế hoạc ở nhiều cấp khác nhau như các tập đoàn lớn.


    Trong phần nầy tôi xin giới thiệu với các bạn một qui trình xây dựng kế hoạch marketing ở hai cấp từ cao đến thấp. Từ kế hoạch tổng thể của cấp điều hành hoạt động kinh doanh của một nghành hàng hoặc một thị trường khu vực, cho đến kế hoạch của một đơn vị trực tiếp kinh doanh trên một thị trường cụ thể.


    Tuy nhiên, do chiến lược marketing bao giờ cũng được xây dựng dựa trên chiến lược kinh doanh chung của doanh nghiệp nên ta bắt đầu bằng chiến lược kinh doanh tổng thể của doanh nghiệp/tập đoàn, rồi mới triển khai qui trình xây dựng kế hoạch marketing của đơn vị kinh doanh.


    Qui trình xây dựng Chiến lược kinh doanh tổng thể.


    Chiến lược kinh doanh tổng thể được xây dựng dựa trên phát biểu tầm nhìn của doanh nghiệp, mang tính định hướng cho toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp và do đó mang tính chiến lược lâu dài.


    Bao gồm các bước:


    1. Họach định chiến lược.


    Xác định sứ mệnh, tầm nhìn và giá trị cốt lõi, phân tích chiến lược và hình thành chiến lược


    2. Cụ thể hóa chiến lược


    Xác định mục tiêu chiến lựơc và các ý tưởng chủ đạo, xác định mục tiêu và công cụ đo lường và các sang kiến chiến lược


    3. Lập kế họach


    Kế họach cải thiện các qui trình họat động, lập kế họach bán hàng, kế họach năng lực nguồn tài nguyên và dự trù ngân sách.


    4. Triển khai thực hiện


    Kế họach họat động các chức năng


    5. Theo dõi và đánh giá


    Họp đánh giá chiến lựơc và họp đánh giá công tác triển khai.


    6. Thử nghiệm và điều chỉnh chiến lựơc


    Phân tích lợi nhuận, phân tích các chiến lược.


    Xem nội dung phần chiến lược


    Qui trình xây dựng Kế hoạch marketing cấp điều hành (cấp cao) .


    Kế hoạch marketing cấp cao được xem như là bản kế hoạch của đơn vị tham mưu, là bản kế hoạch mang tính chiến lược, được cụ thể hoá từ mục tiêu kinh doanh của chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nó nhằm xác định, xây dựng lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp và nhằm đảm bảo tính nhất quán, sự phối hợp hài hoà giữa các đơn vị chức năng và đơn vị kinh doanh.


    Bao gồm các bước:


    * Xác định mục tiêu marketing


    * Phân tích tình hình thị trường


    * Phân khúc thị trường


    * Xác định thị trường mục tiêu


    * Chiến lược marketing định hướng


    * Kế hoạch triển khai thực hiện


    * Kế hoạch theo dỏi và điều chỉnh


    Qui trình xây dựng Kế hoạch marketing của đơn vị kinh doanh.


    Kế hoạch marketing của đơn vị kinh doanh được xem như là bản kế hoạch marketing của đơn vị tác chiến. Nó được cụ thể hoá từ bảng kế hoạch của cấp chuyên nghành, hoặc cấp vùng, với một hay nhiều sản phẩm cụ thể, một thị trường cụ thể và những đối thủ cạnh tranh cụ thể.


    Bao gồm các bước sau:


    * Xác định mục tiêu marketing


    * Phân tích tình hình thị trường


    * Phân khúc thị trường


    * Xác định thị trường mục tiêu


    * Chiến lược marketing


    * Kế hoạch triển khai thực hiện


    * Kế hoạch theo dỏi và điều chỉnh


    Có thể thấy tuy các bước xây dựng của hai cấp, cấp cao và cấp thừa hành là giống nhau, chi tiết và qui mô của các bước trong qui trình của hai cấp nầy được triển khai với qui mô khác nhau, sử dụng những công cụ khác nhau.


    Đỗ Hòa - marketingchienluoc.com ( source)
     
    Last edited by a moderator: 22/7/08
  4. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Khái niệm về giá trị, định nghĩa và mô tả giải pháp khách hàng, qui trình xây dựng và chuyển giao giải pháp khách hàng. Đỗ Hòa - marketingchienluoc.com


    Giải pháp giá tri khách hàng là gì?


    Giải pháp giá trị khách hàng là trọng tâm của mọi họat độngGiải pháp khách hàng không phải là một thương hiệu mới, cũng không phải là một nhãn hiệu con, không phải là một câu khẩu hiệu, không phải là một kế họach marketing, và cũng không phải là một trào lưu nhất thời mới xuất hiện.


    Giải pháp giá trị khách hàng (CVP - customer value proposition) là định nghĩa của những giá trị mà ta mang lại cho khách hàng. Là một diễn dịch của những lợi ích mà khách hàng nhận được. Là ý thức mà khách hàng quyết định giữa một bên là chi phí và bên kia là lợi ích. Là một khung mẫu định hướng họat động của doanh nghiệp.


    Giải pháp giá trị khách hàng là gói chào hàng mang ý nghĩa khuyến khích mà nội dung của nó đáp ứng các nhu cầu cốt lõi và giải quyết các vấn đề khó khăn của khách hàng, và mang lại những lợi ích mang tính khuyến khích nhằm tác động hành vi của phân khúc đối tượng khách hàng trọng tâm.


    Giải pháp giá trị khách hàng được phát triển dựa trên những thách thức từ thực tế môi trường cạnh tranh của thị trường, doanh nghiêp ngày nay phải tính tóan xem họ sẽ phải mang lại những lợi ích gì cho khách hàng bên cạnh sản phẩm thuần túy.


    Áp lực cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải tạo ra sự khác biệt để chứng minh giá trị mà doanh nghiệp có thể tạo ra cho khách hàng là ưu việt so với đối thủ.


    Thông qua giải pháp giá trị khách hàng, doanh nghiệp còn nhằm xây dựng một mối quan hệ lâu dài dựa trên nền tảng hai bên cùng có lợi với khách hàng.


    Những nguyên tắc cơ bản của marketing dựa trên nền tảng giá trị khách hàng bao hàm trong ba vấn đề:


    1. Giải pháp giá trị khách hàng của bạn có tạo ra giá trị thật sự cho khách hàng hay không?


    Nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường với một sản phẩm không thực sự tạo ra giá trị cho khách hàng. Họ đưa ra thị trường cái mà họ làm được chứ không phải cái thị trường cần. Đó là lý do tại sao có đến 50% doanh nghiệp mới phải đóng cửa trong 5 năm đầu hoạt động.


    2. Giải pháp giá trị khách hàng của bạn có vượt trội so với giải pháp của đối thủ cạnh tranh?


    Ưu thế cạnh tranh của một doanh nghiệp được xác định thông qua sự vượt trội về giá trị mà giảp pháp của doanh nghiệp đó mang lại cho khách hàng so với giải pháp của đối thủ cạnh tranh.


    3. Giải pháp giá trị khách hàng của bạn có mang lại lợi nhuận cho bạn hay không?


    Nhiều doanh nghiệp quá chú tâm đến việc thu hút khách hàng và đầu tư vào những giải pháp tạo ra lợi ích cho khách hàng nhưng lại không chú ý đến lợi ích của chính mình. Một giải pháp khách hàng như thế không thể tồn tại lâu dài vì doanh nghiệp ấy không hoạt động hiệu quả.
     
  5. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    :rolleyes:Hi vọng bài viết này sẽ giúp các bạn có thêm kinh nghiệm hữu ích trong marketing.





    Theo Báo Doanh Nhân Cuối Tuần


    Trong hoạt động tiếp thị không có một “bản đồ” rõ ràng chỉ ra đâu là đường đến thành công, đâu là đường dẫn đến thất bại. Dưới đây là tám sai lầm lớn trong tiếp thị mà các doanh nghiệp trẻ hay mắc phải.


    Chỉ làm tiếp thị khi công việc kinh doanh đi xuống


    Để công việc kinh doanh được phát triển, bạn cần phải xây dựng một chương trình tiếp thị có mục tiêu rõ rang và chương trình này phải được thực hiện thường xuyên bên cạnh những công việc hằng ngày của công ty. Một trong những sai lầm mà các doanh nghiệp trẻ hay mắc phải là chỉ tập trung vào một số khách hàng quen thuộc mà bỏ qua hoạt động tiếp thị thường xuyên nhằm tìm kiếm những khách hàng mới. Họ chỉ quay lại công tác tiếp thị khi công việc kinh doanh đang có chiều hướng xuống dốc. Chính điều này sẽ làm cho một doanh nghiệp khó “sống” khi nền kinh tế gặp nhiều khó khăn. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, việc mất bớt khách hàng là việc không thể tránh khỏi, bởi vậy nếu không làm tiếp thị thường xuyên, số lượng khách hàng của công ty bạn có nguy cơ sẽ bị “teo” lại cho đến khi bạn buộc phải đóng cửa.


    Các chiến dịch tiếp thị thiếu tập trung


    Thông thường, những doanh nghiệp trẻ hay gặp thất bại trong công tác tiếp thị vì nhắm đến quá nhiều đối tượng khách hàng khác nhau trong khi ngân sách dành cho tiếp thị lại quá hạn hẹp. Tập trung vào những khách hàng thật sự đang muốn nghe điều bạn nói, bạn sẽ tránh được những thất bại này. Khi hướng những nổ lực tiếp thị vào một nhóm khách hàng mục tiêu đã được chọn lựa chính xác, bạn sẽ thu được những kết quả tốt đẹp. Hãy lập ra danh sách những khách hàng tiềm năng tốt nhất và dồn hết những nổ lực tiếp thị của bạn cho nhóm khách hàng này.


    Bỏ qua việc nghiên cứu và thử nghiệm thị trường


    Bạn nghĩ rằng hàng triệu người sẽ mua sản phẩm hay sử dụng dịch vụ của công ty bạn nhưng bạn có tin chắc vào điều đó không? Trước khi bỏ nhiều tiền bạc ra để giới thiệu doanh nghiệp mới của mình, bạn hãy thực hiện nghiên cứu thị trường. Có thể xem Internet là một trong những nguồn thông tin tốt nhất để bạn thực hiện điều này. Bạn có thể sử dụng những “chat room” (câu lạc bộ tán gẫu) trên Internet để lấy ý kiến phản hồi từ khách hàng và những tư liệu cần thiết mà không phải tốn kém quá nhiều chi phí. Hay bạn cũng có thể thử nghiệm thị trường bằng cách thực hiện những cuộc khảo sát với các nhóm khách hàng tiềm năng. Nếu làm tốt việc nghiên cứu và thử nghiệm thị trường, bạn sẽ tránh được những thất bại do những giả định sai về sản phẩm, dịch vụ hay khách hàng gây ra.


    Chỉ lệ thuộc vào vài phương thức tiếp thị


    Thông thường, bạn có khuynh hướng chỉ lệ thuộc vào một vài phương thức tiếp thị mà bạn cảm thấy “thuận tay “ nhất. Chẳng hạn, nếu thích gặp gỡ và nói chuyện với mọi người, bạn thường chọn cách tạo quan hệ trực tiếp (networking). Còn nếu bạn là người hay e dè, bạn có thể chọn cách gửi thư. Đây chính là một sai lầm lớn trong tiếp thị, bởi vì như vậy, thông điệp tiếp thị của bạn sẽ bị giới hạn và không hướng đến được nhiều đối tượng khách hàng. Do vậy, khi hoạch định chương trình tiếp thị, bạn hãy chọn nhiều hình thức khác nhau để có thể tiếp cận được nhiều đối tượng khách hàng., bất kể là bạn đang ở giai đoạn nào của chu kỳ kinh doanh.


    Chi “chưa tới” cho hoạt động tiếp thị


    Việc đầu tư cho ngân sách tiếp thị cũng quan trọng không kém gì việc đầu tư vào máy móc thiết bị và những công cụ khác để vận hành doanh nghiệp. Nếu bạn đi vay tiền ở ngân hàng, bạn có thể sẽ phải giải trình cho ngân hàng kế hoạch và ngân sách dành cho tiếp thị của công ty bạn. Bởi nếu không có hoạt động tiếp thị hoặc hoạt động này không được đầu tư đúng mức, có khả năng bạn sẽ không trả được nợ vay ngân hàng do không bán được hàng. Ngay cả khi bạn không cần vay tiền ngân hàng hoặc của một ai khác, bạn cũng cần phải chi cho hoạt động tiếp thị một cách thoả đáng nhằm đạt được các mục tiêu hàng năm về doanh số.


    Không xây dựng được một hình ảnh chuyên nghiệp


    Những tài liệu, hồ sơ, vật dụng mà bạn sử dụng cho hoạt động tiếp thị sẽ nói lên hình ảnh của công ty bạn. Để thành công trong tiếp thị, bạn cần phải trang bị cho mình một loạt công cụ có tính nhất quán và liên kết với nhau để làm nổi bật hình ảnh công ty so với các đối thủ cạnh tranh khác. Bạn cũng nên nhận thức tầm quan trọng của khách hàng về hình ảnh của công ty khi họ tiếp xúc với công ty qua điện thoại. Chẳng hạn, việc sử dụng hộp thư thoại, thu âm lời chào khách hàng nghe có vẻ “chuyên nghiệp” và trả lời các cuộc điện thoại gọi đến trong vòng 24 giờ cũng là một cách giúp bạn “đánh bóng” hình ảnh chuyên nghiệp của công ty mình.


    Không quan tâm đến khách hàng hiện hữu


    Thường, khi chuyện kinh doanh đang phát đạt, bạn có khuynh hướng chỉ tập trung vào những khách hàng mới mà bỏ quên các khách hàng hiện hữu. Bạn sẽ phải trả giá cho sai lầm này. Bởi lẽ, bạn sẽ phải mất nhiều thời gian và chi phí hơn để thuyết phục khách hàng mới mua hàng so với việc khuyến khích khách hàng cũ tiếp tục mua hàng. Hãy lập ra một danh sách khách hàng hiện hữu hoặc khách hàng thân thiết và bảo đảm rằng các chương trình tiếp thị của bạn có hướng đến những nhóm khách hàng này.


    Xem thường vai trò của công nghệ


    Trong thời đại hiện nay, khi mà công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, phát triển không ngừng, bạn sẽ không đạt được nhiều thành công trong công tác tiếp thị nếu như không ứng dụng được những tiến bộ của công nghệ vào lĩnh vực này. Chẳng hạn, hiện nay phần mềm quản lý quan hệ khách hàng và chương trình qua Internet là hai công nghệ hay được các công ty trên thế giới sử dụng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tiếp thị. Dù bạn đang ở giai đoạn nào của chu kỳ kinh doanh, thành công chỉ đến khi bạn không ngừng tìm ra những phương thức mới và tốt hơn để giao tiếp với khách hàng hiện hữu cũng như khách hàng tiềm năng. Công nghệ mới sẽ giúp bạn thực hiện điều đó.


    source: marketingchienluoc.com
     
    Last edited by a moderator: 1/8/08
  6. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Nguồn tin: Marketing Vietnam


    Khi nhìn xung quanh có bao giờ bạn thấy có những người luôn luôn tìm được những ý tưởng tuyệt vời mà bạn thì không ? Và từ đó bạn chấp nhận rằng khả năng sáng tạo của mình là bị giới hạn so với họ, hay là khả năng tìm kiếm ý tưởng là một thứ của trời cho được ban phát không đồng đều ? Nhưng nếu ngay cả như vậy thì có giải pháp nào khắc phục và phát huy hết khả năng của mỗi người không ? Đó chính là lúc bạn cần đến kỹ thuật Brainstorming.


    Vậy kỹ thuật Brainstoming là gì ?


    Đơn giản đây là phương pháp giúp cho não của bạn hoạt động một cách hiệu quả và sáng tạo nhất. Brainstorming không chỉ dành riêng cho những họa sĩ bậc thầy hay những nhà thiết kế đồ họa lâu năm mà còn có thể được sử dụng bởi tất cả mọi đối tượng, những người cần tới sự sáng tạo, tìm kiếm cái mới cho dù họ là họa sĩ, kỹ sư hay một chuyên gia kinh tế.


    Điều gì tạo nên sự khác biệt giữa một nhà thiết kế và số còn lại ? Đó chính là sự độc đáo trong ý tưởng và cách thể hiện. Vậy làm cách nào để có những ý tưởng thật sự độc đáo ? Hãy ví dụ có 100 nhà thiết kế nghĩ ra đuợc 100 ý tưởng khác nhau, và nếu ý tưởng của bạn không thể nào vượt qua ranh giới của 100 ý tưởng này thì chắc chắn rằng cho dù ý tưởng của bạn có hay tới mức nào thì cũng chỉ là một sự sao chép. Nhưng hãy hình dung nếu bạn có thể đưa ra được 101 ý tưởng, điều này có nghĩa chắc chắn bạn đã tạo ra được một điều gì đó hoàn toàn mới mẻ. Bạn đã đạt được 1 sự khác biệt so với những người còn lại, nhưng nếu bạn đã có 1 ý tưởng mới rồi, vậy chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn có thể nghĩ ra tới 110 ý tưởng. Khi đó bạn sẽ có rất nhiều cơ hội để có thể so sánh và lựa chọn ra ý tưởng nào là tối ưu nhất để có thể ứng dụng vào thực tế.


    Câu hỏi ở đây là: vậy số ý tưởng đưa ra bao nhiêu là đủ? bạn có thể thỏa mãn chỉ với một ý tưởng mới, nhưng cứ thử nghĩ nếu ta phát triển thêm từ nó thì kết quả đạt được sẽ hiệu quả hơn biết chừng nào. Vậy câu trả lời cho câu hỏi trên là giới hạn của số ý tưởng đưa ra chính là tất cả những ý tưởng mà bạn còn có thể nghĩ ra và phát triển được. Hãy bỏ qua những giới hạn và bắt bộ nào hoạt động hết khả năng, khi đó bạn sẽ thật sự bị bất ngờ bở khả năng sáng tạo của chính mình.


    Đôi lúc chúng ta suy nghĩ thường đi theo một lối cố định nào đó, ví dụ những một đứa bé xây dựng những ngôi nhà đồ chơi, thì theo logic luôn luôn ây từ sàn cho tới nóc. Vậy bây giờ nếu ta đảo ngược toàn bộ tiến trình xây dựng lại hay thậm chí sắp xếp một cách ngẫu nhiên thì sao ? Đã bao giờ bạn đọn dẹp lại những đồ đạc mà bạn nghĩ đã được sắp xếp một cách ngăn nắp và phát hiện ra những thứ mà bạn đã bỏ nhiều công sức để tìm tại một chỗ khác ? Đó chính là suy nghĩ theo một mô hình có sẵn rằng đồ vật đó không thể được tìm thấy tại nơi mình đã sắp xếp. Cũng như vậy, ý tưởng luôn nằm ở nơi bạn hoàn toàn không ngờ tới, cách hiệu quả nhất để tìm kiếm là hãy lục tung tất cả lên, phá vỡ sự ngăn nắp trong suy nghĩ của bạn, bày bữa tất cả chúng ra trên mặt đất để có thể nhìn ngắm ở nhiều góc độ, kết hợp nhiều thứ với nhau… Tới đây bạn có thể sẽ thắc mắc, làm sao có thể bày tất cả ý tưởng của mình ra như đồ vật trong một căn phòng?


    Thật đơn giản, hãy viết tất cả ra giấy, tất nhiên với một cây viết. Hãy viết bất cứ thứ gì có trong đầu bạn ra mặt giấy (brain dumping), không cần phải suy nghĩ nó là một ý tưởng tốt hay chỉ là một suy nghĩ thoảng qua trong đầu. Bạn càng không cần phải bận tâm đến việc mình có viết đẹp, ngay hàng thẳng lối hay không, nếu cần diễn tả một hình ảnh, cứ việc vẽ ra nếu bạn thích, nhưng hãy phác hoạ thật nhanh chóng, hay khi phát hiện ra mình viết sai thì cũng chẳng cần phải quay lại để sửa chữa, hãy để suy nghĩ của bạn liên tục. Đừng chỉ suy nghĩ về chỉ 1 thứ mà hãy suy nghĩ đến tất cả những thứ có liên quan đến nó, ví dụ như bạn đang tập trung về chủ đế ngôi nhà đồ chơi, hãy nghĩ tới những món đồ chơi khác mà bạn có, về ngôi nhà thật, về những người công nhân xây dựng… Cứ viết và đừng dừng bút để suy nghĩ. Nếu bạn dừng bút trong khoảng thời gian dài hơn 10 giây, điều đó có nghĩa là bạn đã khai thác quá nhiều về ý tưởng đó, hãy lập tức bỏ qua một bên và quay sang những thứ liên quan khác, ta sẽ quay lại với nó sau. Có thể bạn cảm thấy hơi ngớ ngẩn, nếu chỉ viết ra tất cả mọi thứ như vậy thì bạn sẽ đạt được cái gì cụ thể ? Mục đích của quá trình Brainstorming này không phải là tìm được chính xác một ý tưởng hoàn thiện mà là đưa ra được càng nhiều ý tưởng càng tốt, do đó e ngại khi viết ra những điều mà bình thưởng bạn nghĩ sẽ rất ngớ ngẩn, ví dụ như xây dựng một ngôi nhà không cần tới mái chẳng hạn, thật sự thì bạn cũng đã thấy bây giờ đã có những ngôi nhà không có mái trong thực tế. Nếu không có ý tưởng thì không thể nào có kết quả. Một người từng nhận giải Nobel đã phát biểu: “Cách tốt nhất để có được một ý tưởng tốt là bạn phải có thật nhiều ý tưởng” (The best way to get a good idea is to get a lot of ideas – Linus Carl Pauling – Nobel hòa bình 1963).


    Vậy Brainstorming ngoài việc đưa ra thật nhiều ý tưởng, nó còn giúp ta được gì nữa không ?


    Brainstorming giúp ta phân tích kỹ vấn đề, tự xem xét tất cả vấn đề có thể xảy ra khi trong khi ta liên tục đặt ra những câu hỏi: Nếu vậy, giả sử như …


    Ví dụ: bạn sẽ nhìn thấy rất rõ được chức năng của từng bộ phận trong căn nhà của bạn nếu liên tục đặt ra những câu hỏi nếu như không có nó thì sẽ như thế nào ? hay giả sử nó để vào chỗ khác thì có ảnh hưởng ko ? tổng thể sẽ ra sao nếu nó có hình dạng khác với hình dạng chuẩn ? … Hay khi đặt câu hỏi nếu đang làm mà mất đi một bộ phận của nhà thì sẽ lấy gì để thay thế ?... Những câu hỏi như vậy sẽ giúp bạn hình dung và đưa ra giải pháp xử lý tình huống bất ngờ một cách sáng suốt nhất. Đưa ra nhiều tham số để lựa chọn, bạn sẽ dễ dàng để lựa chọn được cách tối ưu nhất. Như khi bạn chỉ có 2 màu sơn để sơn một căn phòng cho thích hợp, bạn sẽ phải buộc hài lòng với một trong hai, nhưng khi có trong tay tới 20 màu sơn thì bạn hoàn toàn lựa chọn màu sắc nào là thích hợp với tính cách bản thân mình nhất. Bạn chỉ có thể có được kết quả tốt nhất khi bạn có được ý tưởng tốt nhất.


    Brainstorming có những phương pháp và kỹ thuật nào?


    Khi bắt đầu brainstorming, bạn hãy chú ý đến những kỹ thuật:


    1. Quan sát những điều mới mẻ


    Khi đứng trước một đồ vật là lùng, câu hỏi đầu tiên của bạn sẽ là chính xác đây là cái gì ? nó có công dụng gì và dùng ra sao ? chính sự phán đoán khi không biết rõ sẽ dẫn tới những ý tưởng thú vị, ngay cả khi những phán toán đó hoàn toàn không đúng với thực tế. Đã bao giờ bạn nghĩ một cây antena có kiểu dạng lạ là một cây cột thu lôi hay chưa ? Hay mỗi ngày khi đi về nhà bạn đều đi đúng một con đường duy nhất, nhìn cùng một cảnh vật nên lâu ngày sẽ chẳng buồn ngó đến cảnh vật xung quanh. Hãy thử một lần khám phá một con đường mới về nhà mà bạn chưa từng đi, khi đó bạn thấy bạn sẽ phải chú ý đến cảnh vật xung anh nhiều hơn. Du lịch, gặp gỡ những người bạn mới đều là những cách để khám phá và tích lũy những ý tưởng mới để có thể sử dụng khi cần thiết.


    2. Hãy nhìn lại thật kỹ những thứ bình thường mà bạn nhìn thấy hàng ngày.


    Một vết loang trên bàn gỗ trên bàn làm việc, đã bao giờ bạn nhìn kỹ nó thật gần để tìm hiểu nó là do trà, café hay thứ gì để lại… Nhìn kỹ những bảng hiệu, con người trên đoạn đường đi về hàng ngày, bạn sẽ nhật thấy những điều vô cùng ngạc nhiên mà bình thường bạn bỏ qua hay nghĩ là không cần thiết. Hãy tìm cách suy nghĩ phát triển những điều mình thấy, ví dụ như nhìn thấy một ngã tư, bạn hãy hình dung nếu có đèn tín hiệu giao thông thì sẽ thế nào ? nếu không có thì sao hay thậm chí giải sử có một vòng xoay thì giao thông và cảnh vật sẽ thế nào ? Cuối cùng, hãy quan sát thật kỹ những thành phần cấu tạo nên thứ bạn đang nhìn. Có trong tay một hộp quà, hãy khoan vội mở nó ra để lấy thứ bên trong, hãy quan sát thật kỹ tới hộp đựng, giấy gói, nơ, hoa văn trên giấy, kết dính ra sao ? …


    3. Kết hợp nhiều ý tưởng để tạo ra ý tưởng mới:


    Đây là một bước vô cùng quan trọng trong việc tìm kiếm những ý tưởng mới. Giả sử ta có một cây đèn và một chiếc đồng hồ trong tay, nếu kết hợp chúng lại thì sẽ như thế nào ? một cây đèn có gắn đồng hồ ? một chiếc đèn hẹn giờ bật tắt ? một chiếc đồng hồ dạ quang ? hay đồng hồ sử dụng năng lượng ánh sáng ? một chiếc đồng hồ du lịch có thể phát sáng để soi đường ? Kết hợp hai hay nhiều thứ khác nhau lại với nhau theo chức năng, hình dạng, cấu tạo và bạn sẽ bất ngờ với những ý tưởng mới nghe có thể là vô lý những hoàn toàn có thể là bước bắt đầu cho một sản phẩm đột phá.


    4. Đặt ý tưởng trong những điều kiện khác thường và đối nghịch:


    Cố gắng khai thác sự đối nghịch với ý tưởng đang có sẽ giúp ta có 2 ý tưởng hoàn toàn khách nhau. Ví dụ như tại sai phải xây một ngôi nhà đầy góc cạnh mà không xây một ngôi nhà tròn ? hay tại sao phải lắp ráp một máy tính có kích thước lớn mà không lắp ráp một máy tính thật nhỏ gọn, tiết kiệm diện tích ?


    Bên cạnh đó hãy đặt ý tưởng vào trong những điều kiện khác thường,. Ví dụ một chiếc máy tính thu nhỏ hết cỡ thì sẽ như thế nào ? Có thể xách tay ? có thể bỏ túi áo ? hay thậm chí có thể ghép dưới da ?, một chiếc bánh nếu phóng thật lớn trông nó sẽ ra sao ?


    5. Cuối cùng là phải biết đặt ra những giới hạn và luật lệ khi Brainstorming.


    Việc liệt kê các ý tưởng một cách lan tràn sẽ dễ dẫn tới đi qua xa vấn đề cần giải quyết nếu bạn không đặt ra một hàng rào giới hạn nó và thực hiện theo. Ví dụ, khi nghĩ về quảng cáo một loại nước hoa thì bạn không phải suy nghĩ phát triển ra tới tình hình thế giới, hay khi tìm hiểu về con đường thì không cần phát triển ý tưởng lan qua lãnh vực thể thao chẳng hạn. Giới hạn hợp lý giúp bạn tập trung vấn đề và kiếm thật nhiều ý tưởng hữu dụng mà không mất quá nhiều thời gian, nhưng nếu giới hạn quá nhỏ có thể sẽ giới hạn luồng suy nghĩ của bạn.


    Đến đây bạn đã nắm bắt được cơ bản của kỹ thuật Brainstorming. Ý tưởng sáng là thứ đóng vai trò quyết định trong bất cứ lĩnh vực nào và giới hạn của bộ não bạn là vô cùng. Hãy kết hợp và sử dụng Brainstorming đúng lúc để khai thác nó một cách hiệu quả nhất. Tập thành thói quen thúc đẩy não làm việc hết sức khi cần ý tưởng. Hãy nhớ rằng một ý tưởng tốt là bước đầu tiên để có một tác phẩm hoàn hảo.


    Theo Zidean.com
     
  7. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Có thể nói PR là chữ P thứ 5 của Marketing Mix sau Positioning – Định vị sản phẩm (1) People – Người tiêu dùng (2) Price/promotion – Giá cả/khuyến mãi (3) Place – Nơi tiêu thụ/kênh phân phối (4).PR đem thông tin về công ty và sản phẩm tới cho người tiêu dùng.


    Vậy PR khác với quảng cáo thế nào?.


    Truớc hết, PR mang tính khách quan hơn bởi các hoạt động này thường dùng các phương tiện trung gian có tính khách quan để đem thông điệp đến cho người tiêu dùng:


    - Thông cáo báo chí và bài viết trên các báo đài.


    - Các chương trình tài trợ.


    - Các hoạt động từ thiện.


    Thông điệp của các hoạt động PR thường ít mang tính thương mại rõ ràng, mà có tính thông tin nhiều hơn, nên đễ được đối tượng chấp nhận hơn.


    Sau nữa, các hoạt động PR mang đến nhiều thông tin cụ thể hơn cho người tiêu dùng. Thí dụ khi công ty bảo hiểm Bảo Minh CMG đưa ra thị trường sản phẩm bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, chiến dịch quảng cáo tập trung quanh chủ đề “Phước Lớn” phù hợp dưới hình ảnh chung của công ty “Lớn”, cùng lúc đó các khách hàng đến dự chương trình PR khám sức khoẻ miễn phí tại quảng trường Sài Gòn có thể nhận được những thông tin cụ thể hơn rất nhiều về chính sách bảo hiểm bệnh hiểm nghèo này liên quan đến mức phí, quyền lợi…


    Các hoạt động PR thường có chi phí thấp hơn do không phải chi các khoản tiền lớn thuê mua thời lượng trên các phương tiện truyền thông và không cần chi phí thiết kế sáng tạo và sản xuất cao. Ngân quỹ cho hoạt động PR của các công ty thường ít hơn chi phí quảng cáo hàng chục lần. Tuy nhiên, hiệu quả thông tin thường lại không thấp hơn, do tính chất tập trung của đối tượng và nhờ tác dụng rộng rãi của truyền miệng (word – mouth).


    Các hoạt động PR cũng thường mang tính nhất quán lâu dài hơn. Một khẩu hiệu quảng cáo, một tính chất của sản phẩm hay thậm chí một chiến lược kinh doanh có thể thay đổi khá thường xuyên để bắt kịp thị hiếu của thị trường, song hình ảnh và các giá trị của thương hiệu thường phải được xây dựng và gìn giữ trong một quá trình lâu dài mới tranh thủ được lòng tin của công chúng.


    Một đặc điểm nữa của hoạt động PR là thường đem đến lợi ích cụ thể cho đối tượng. Một chương trình ca nhạc do Nokia tài trợ không chỉ quảng bá cho sản phẩm của Nokia mà còn là một hoạt động giải trí có tính văn hoá và chất lượng nghệ thuật cao cho người xem. Bia Tiger tài trợ cho bóng đá Việt Nam cũng được thưởng thức Cup Tiger hấp dẫn. Đó là chưa kể đến những hoạt động PR mang tính từ thiện rõ ràng như Foster’s bia chi hàng trăm triệu đồng nâng cấp bệnh viện Đà Nẵng.


    Các hoạt động PR của nhiều công ty thường có mục tiêu gây cảm tình của công chúng nói chung mà không gắn với sản phẩm cụ thể. Rõ ràng là hoạt động PR ít nhiều có tác dụng tích cực cho xã hội.


    Tuy nhiên, một số mặt hạn chế của PR là:


    - Không đến được với một lượng rất lớn đối tượng trong một thời gian ngắn như quảng cáo.


    - Thông điệp không “ấn tượng” và dễ nhớ.


    - Khó kiểm soát vì nội dung thông điệp thường được chuyển tải qua góc nhìn của bên thứ ba (nhà báo, nhân vật nỗi tiếng, chuyên gia, sự kiện..).


    Giữa PR và quảng cáo có một mối quan hệ hữu cơ khắng khít. Các chiến dịch quảng cáo thường được hỗ trợ bởi các hoạt động PR song song. Thí dụ show quảng cáo mới gần đây của bia Tiger The quest được quảng bá bằng chiến dịch PR khá rầm rộ. Ngược lại, nhiều chương trình PR cũng được quảng cáo rộng rãi như chương trình học bổng Đèn đom đóm của sữa Cô gái Hà Lan.


    Nói tóm lại, nếu quảng cáo đóng vai trò hết sức quan trọng để sản phẩm của công ty được biết và nhớ tới rộng rãi thì PR góp phần để sản phẩm và công ty được yêu mến và tin cậy.


    CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG PR


    1) Tư vấn xây dựng chiến lược tổng thể:


    - Tính chất của sản phẩm


    - Mục tiêu của công ty.


    - Đối tượng của sản phẩm.


    - Các đặc thù tâm lý, văn hoá chính trị, kinh tế pháp lý của địa phương.


    - Các thế lực có ảnh hưởng tới lĩnh vực hoạt động của sản phẩm/ công ty.


    2) Quan hệ báo chí, bao gồm:


    - Tồ chức họp báo, soạn thảo thông cáo báo chí.


    - Tổ chức các buổi briefing ngắn thông tin cập nhật cho các nhà báo.


    - Tạo điều kiện thu xếp các buổi phỏng vấn, phóng sự đặc biệt.


    Nguyên tắc cơ bản của hoạt động này là sự tin cậy lẫn nhau và thông tin hai chiều giữa cán bộ PR và nhà báo. Cán bộ PR phải làm sao để nhà báo thấy có lợi về mặt thông tin khi làm việc với công ty PR. Thông tin không chính xác từ phía công ty gây nhgi ngờ và mất lòng tin của nhà báo và theo đó là của độc giả. Ngược lại, thông tin không chính xác của nhà báo hiển nhiên sẽ làm thiệt hại uy tín và thậm chí ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của công ty.


    “Rò rỉ” thông tin cũng là một biện pháp mà nhiều công ty sử dụng để tạo sự tò mò hoặc gây sự ảnh hưởng nhất định tới hành xử của một nhóm đối tượng cụ thể, thí dụ như của nhà đầu tư, đối tác hoặc của chính nhân viên trong công ty.


    Cần lưu ý là quan hệ báo chí phải được xây dựng trong một thời gian dài, không phải chỉ trong những dịp cần đưa thông tin của công ty lên các phương tiện thông tin.


    3) Tổ chức các sự kiện: bao gồm (nhưng không chỉ hạn chế là) các lễ khai trương, động thổ, khánh thành, kỷ niệm…


    4) Đối phó với các rủi ro: như tai nạn, khiếu nại của khách hàng, tranh chấp, hiều lầm. Nhiều công ty, nhất là các công ty hoạt động trong các lĩnh vực nhạy cảm hoặ rủi ro cao như thuốc lá, dược phẩm, hàng không, y tế, dầu khí…thường rất chú trọng đến lĩnh vực này và có hệ thống đối phó riêng được luyện tập thường xuyên để nếu rủi ro xảy ra có thể đối phó một cách tỉnh táo và chính xác.


    5) Các hoạt động tài trợ cộng đồng:


    - Tài trợ từ thiện (ủng hộ chống bão lụt, học bổng cho học sinh nghèo…)


    - Tài trợ thương mại (các chương trình TV, ca nhạc thể thao gắn với tên sản phẩm).


    6) Các hoạt động phi thương mại trực tiếp với khách hàng: hội nghị khách hàng, chương trình huấn luyện cách sử dụng, thư viết trực tiếp đến khách hàng, triển lãm, roadshow.


    7) Quan hệ PR đối nội: hội nghị nhân viên, ngày truyền thống của công ty, bình chọn nhân viên xuất sắc nhất của tháng, của năm. Những hoạt động này nhằm nâng cao sự tự hào, gắn bó và lòng trung thành của nhân viên với công ty.


    source: http://only1.sky.vn/archives/244
     
  8. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Hi vọng các bạn sẽ tìm đuợc ý tuởng hay cho riêng mình qua bài đọc thú vị & bổ ích này :rolleyes:


    Trên con đường hướng tới thành công, mọi Công ty đều cần những chiếc xe “giao tiếp cộng đồng” (Public relations - PR) hiệu quả nhất và có tốc độ nhanh nhất. Nhiều Công ty rất muốn chạm đến những thành công đó, nhưng họ không biết cỗ xe PR nào hiệu quả đối với mình.


    1. Tạo ra các sự kiện, ngày kỷ niệm


    Vào năm 1991, khi đang giảng dạy bộ môn kỹ năng giao tiếp trong kinh doanh, Jacqueline Whitmore, thành viên sáng lập kiêm Giám đốc Trường Lễ tân và Ngoại giao Palm Beach tại Florida, thường xuyên được các học viên hỏi về phép xã giao liên quan đến điện thoại di động. “Tôi đã nhận thấy cần phải làm rõ vấn đề này”, Whimore kể lại, “nên tôi quyết định tạo ra một sự kiện đặc biệt nào đó giúp họ tìm hiểu kỹ hơn”. Bà đã đăng ký một ngày lễ mới vào Lịch trình tổ chức các sự kiện Chase (một lịch trình được giới doanh nghiệp và truyền thông Mỹ sử dụng, bao gồm cả những ngày lễ truyền thống và những ngày lễ mới được đặt ra). Vào tháng 7/2002, Tháng xã giao điện thoại di động quốc gia đã chính thức được tổ chức, và Jacqueline có được danh tiếng trong công chúng quốc gia cũng như địa phương, đồng thời bà còn có được nhiều khách hàng mới. Nếu muốn, bạn cũng có thể làm như Jacqueline: đăng ký một ngày lễ mới tại địa chỉ trang web www.chases.com.


    2. Viết sách


    Các khách hàng tiềm năng luôn ngưỡng mộ tác giả của những cuốn sách, thậm chí cả khi cuốn sách của họ có lượng bản in không lớn lắm. Trên thực tế, khi viết một cuốn sách, bạn đã thể hiện cho khách hàng thấy bạn là người có kiến thức sâu rộng và đáng tin cậy. Thêm vào đó, bạn có thể bán cuốn sách của mình hay sử dụng nó như sản phẩm đính kèm - điều có tác dụng lan toả rất lớn đối với tên tuổi và danh tiếng của bạn. Chưa kể tác giả cuốn sách thường sẽ là nguồn phỏng vấn ưa thích của các đài phát thanh, truyền hình.


    3. Giành một giải thưởng kinh doanh


    Nếu bạn nghĩ rằng việc giành được một giải thưởng kinh doanh là vô cùng khó khăn, thì chắc chắn bạn sẽ không có đủ khả năng để tham gia cuộc chạy đua. Nhiều giải thưởng kinh doanh được giới truyền thông tài trợ, nên đây sẽ là cơ hội tốt để giới thiệu tên tuổi người chiến thắng và viết nên những câu chuyện về họ. Bạn thấy không, đây quả là một cơ hội PR tuyệt vời. Khi đạt được giải thưởng, bạn có thể công bố với các khách hàng hiện tại và tiềm năng trên trang web hay trên các tài liệu tiếp thị như một cách khẳng định vị trí của bạn trên thị trường.


    4. Tham gia vào các chương trình truyền hình phổ biến


    Gần đây, Wes Moss, nhà tư vấn tài chính và cũng là người từng tham gia Chương trình truyền hình nổi tiếng ở Anh có tên The Apprentice (Người học việc), đã viết cuốn sách Starting from Scratch (Bắt đầu từ vạch xuất phát) khá ăn khách. Quả thật, nếu Wes không là “người thật việc thật” có mặt trong chương trình truyền hình The Apprentice, thì có lẽ cuốn sách của ông không được nhiều người biết đến như vậy. Giờ đây, với một cuốn sách được xuất bản, danh tiếng của ông trở nên nổi như cồn.


    5. Tổ chức các buổi hội thảo, tư vấn miễn phí


    Jacqueline Bonfiglio-Naja, nhà thẩm mỹ học và là Chủ tịch Công ty Jacqueline chuyên về các giải pháp chăm sóc da tại North Dartmouth, thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo miễn phí với chuyên đề chăm sóc da tại nhiều địa phương khác nhau từ nhiều năm nay. “Qua các buổi hội thảo, mọi người biết đến tôi nhiều hơn. Từ đó, tôi có thêm các khách hàng mới và cộng đồng cũng đánh giá tôi cao hơn”, Jacqueline cho biết.


    6. Thiết lập hệ thống thư tin tức điện tử (electronic newsletter)


    Jeffrey Gitomer North Carolina, một chuyên gia bán hàng, luôn có trên 100 ngàn người trong danh sách khách hàng nhận bản tin gửi qua thư điện tử hàng tuần của ông. Đây là một công cụ PR vô cùng hiệu quả, đảm bảo tên tuổi của ông luôn hiện diện trong trí nhớ của khách hàng hiện tại và tiềm năng. Ngoài ra, ông còn có thể quảng bá dịch vụ của mình trong các thư này và kết quả là chúng đã trực tiếp đem về cho ông hơn nửa triệu USD doanh thu mỗi năm.


    7. Tận dụng khách hàng của các công ty khác


    Hợp tác trong hoạt động kinh doanh và liên kết các khu vực bán hàng với các Công ty khác luôn là một giải pháp khôn khéo. Mỗi Công ty đều có thể có được nhiều ích lợi từ khách hàng của những công ty khác, vì khách hàng của công ty mà bạn liên kết có thể biết về Công ty bạn nhiều hơn. Ví dụ: Cửa hàng bánh ngọt We Take the Cake tại Ft. Lauderdale, Florida, đã mở một quầy hàng nhỏ trong khu vực trưng bày của Công ty bán hoa Field of Flowers địa phương, nơi khách hàng mua hoa sẽ được tiếp thị bánh ngọt và ngược lại. Việc sản phẩm của bạn hiện diện hữu hình sẽ gia tăng đáng kể cơ hội có được ngày một nhiều khách hàng mua sắm sản phẩm, dịch vụ của bạn hơn.


    8. Tham gia vào các tổ chức thương mại địa phương


    Vài năm trước đây, Barb Friedman, một nhà tổ chức chuyên nghiệp, chủ tịch hãng Organize IT, đảm nhiệm cương vị chủ tịch Hiệp hội các nhà tổ chức chuyên nghiệp quốc gia. Vào thời điểm đó, trên chương trình The Dr. Phil Show đang bàn về câu chuyện “nhà nội trợ tồi nhất nước Mỹ” với nhân vật chính là một phụ nữ có lối sống rất thiếu tổ chức. Với tư cách là chủ tịch Hiệp hội các nhà tổ chức chuyên nghiệp quốc gia, Barb có đủ lý lẽ và điều kiện để liên hệ tham gia vào chương trình này. Từ đó kết quả kinh doanh cùng danh tiếng của bà đã gia tăng đáng kể.


    9. Tạo ra một tranh luận rắc rối


    Đã 4 năm trôi qua, kể từ khi Land of Odds, một Công ty chế tác ngọc trai tại Nashville, Tennessee, tổ chức Cuộc tranh luận hàng năm về chuỗi hạt ngọc xấu nhất. Cuộc bàn cãi vô tiền khoáng hậu này đã đem lại cho công ty sự nổi tiếng trong công chúng từ năm này qua năm khác. Như vậy, việc tạo ra một cuộc tranh luận với những rắc rối khó giải đáp sẽ giúp hoạt động kinh doanh của bạn trở nên đặc biệt trên thị trường, đồng thời thu hút nhiều sự chú ý của công chúng đến với sản phẩm, dịch vụ của bạn.


    10. Làm công tác xã hội


    Hãy nghĩ về công việc xã hội như một sự đầu tư, qua đó biểu lộ tài năng và tên tuổi của bạn tới các khách hàng tiềm năng. Khi đại lý quảng cáo Colle+McVoy, Minnesota, thực hiện các công việc xã hội và quyên góp cho Quỹ môi trường tại St. Paul, Minnesota, hãng đã nhận được ngày một nhiều hơn các hồi âm tích cực từ khía cộng đồng. Thậm chí hãng còn được mời cộng tác với Văn phòng trợ giúp môi trường bang Minnesota. Ai nói công việc này là không hiệu quả?


    10 ý tưởng PR sáng tạo mà chúng tôi giới thiệu trên đây có thể rất hữu ích và phù hợp đối với bất cứ loại hình kinh doanh nào. Việc áp dụng một hoặc một vài ý tưởng trên sẽ giúp bạn gia tăng danh tiếng của bản thân và cùng với đó là mức độ thành công trong kinh doanh mà bạn xứng đáng có được.


    Theo Theo Bwportal


    source: http://marketingchienluoc.com/
     
  9. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    :unsure: Truyền thông marketing là gì?


    Nhằm có thể đạt được mục tiêu kinh doanh trên thị trường, có một sản phẩm tốt không thôi chưa đủ, doanh nghiệp cần phải xây dựng thương hiệu của minh thành một thương hiệu được khách hàng ưa chuộng. Để đạt được điều nầy, doanh nghiệp cần phải truyền thông với thị trường để khách hàng biết những tính năng ứng dụng, tính ưu việt và lợi ích của sản phẩm mình. Ngoài ra, doanh nghiệp còn cần phải xây dựng mối quan hệ với khách hàng và duy trì cũng cố mối quan hệ nầy. Vì những yêu cầu trên, doanh nghiệp cần có một chiến lược truyền thông marketing.


    Có nhiều hình thức truyền thông marketing khác nhau. Doanh nghiệp có thể truyền thông một cách trực tiếp, mặt đối mặt, sử dụng đội ngũ bán hàng, hoặc thông qua trung tâm dịch vụ điện thoại, hoặc một cách gián tiếp, sử dụng quảng cáo, hoạt động thúc đẩy thương mại, truyền thông điện tử, hoặc là các vật dụng trưng bày tại điểm bán hàng.


    Yếu tố chọn công cụ truyền thông marketing nên dựa trên nguyên tắc phương tiện nào giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu một cách có hiệu quả kinh tế nhất, cụ thể là phương tiện nào mang lại hiệu quả cao nhất trên cùng một khoảng chi phí bỏ ra.


    Các hình thức truyền thông khác nhau.


    Trên thực tế doanh nghiệp có nhiều phương thức đa dạng trong việc truyền thông với khách hàng, nhưng vẫn có thể phân biệt được thành hai loại chính:


    Truyền thông phi cá thể, chẳng hạn quảng cáo, vật dụng trưng bày tại điểm bán hàng, thúc đẩy bán hàng, truyền thông điện tử và quan hệ công đồng.


    Truyền thông cá thể (trực tiếp đối mặt), cụ thể là gặp mặt trực tiếp giữa nhân viên bán hàng và khách hàng, chẳng hạn như bán trực tiếp hoặc trung tâm dịch vụ điện thoại.


    Cho nên có thể nói có khá nhiều hình thức truyền thông để doanh nghiệp lựa chọn, họ có thể sử dụng đơn độc một loại, hoặc sử dụng một tập hợp nhiều kỹ thuật cùng một lúc, nếu cần thiết, để đạt được hiệu quả tối đa trong khả năng ngân sách hạn hẹp.


    Quảng cáo là một phương thức phổ biến về truyền thông phi cá thể, sử dụng những phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình, truyền thanh, bảng quảng cáo, tờ poster v.v. Tuy nhiên vẫn có nhiều vấn đề cần phải xem xét cẩn thận trước khi đưa ra quyết định chi tiêu cho việc quảng cáo. Chẳng hạn như có nhiều người cho rằng quảng cáo là lãng phí, chi phí tiêu dùng vào phương tiện truyền thông có thể mang lại hiệu quả hơn nếu dùng vào việc bán hàng thông qua tiếp xúc cá nhân.


    Do vậy vấn đề là làm thế nào để xác định chiến lược truyền thông hỗn hợp thích hợp.


    Đỗ Hòa - www.marketingchienluoc.com :D
     
  10. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Đỗ Hòa - www.marketingchienluoc.com


    Khái niệm vai trò và các hình thức thúc đẩy bán hàng


    Làm gì để thúc đẩy bán hàng?


    Trước hết xin lưu ý là do không biết chính xác cụm từ Sales Promotion được chuyển sang Tiếng Việt là gì nên tôi tạm dịch "Sales Promotion" là "Thúc đẩy bán hàng". Cũng như Quảng cáo, Hoạt động tại điểm bán hàng, Truyền thông điện tử và Quan hệ công đồng, Thúc đẩy bán hàng cũng là một trong những công cụ truyền thông marketing phi cá thể.


    Thế nào gọi là "thúc đẩy bán hàng"? Một nhóm những công ty hoạt động trong lĩnh vực thúc đẩy bán hàng đã đưa ra một định nghĩa khái quát như sau: "Thúc đẩy bán hàng là một bộ môn nghiên cứu vận dụng nhiều kỹ thuật khuyến khích khác nhau để hình thành một chương trình bán hàng nhắm vào người tiêu dùng, những thành viên trong dây chuyền phân phối và nhân viên bán hàng với chủ đích nhằm tạo ra một hành động cụ thể có thể đo lường được đối với một sản phẩm hay dịch vụ.


    Thúc đẩy bán hàng đóng vai trò gì trong chiến lược truyền thông marketing? Theo thống kê đối với thị trường Mỹ, trước đây quảng cáo chiếm phần lớn ngân sách truyền thông marketing. Cho đến những năm '80 cho đến '90, ngân sách hoạt động truyền thông marketing đã thay đổi theo chiều ngược lại, từ 60% cho quảng cáo và 40% cho thúc đẩy bán hàng thành 40% cho quảng cáo và 60% cho thúc đẩy bán hàng.


    Sau đó do làn sóng phát triển thương mại điện tử, nhiều doanh nghiệp đã đổ cả núi tiền vào các hoạt động quảng cáo để xây dựng tên tuổi cho các doanh nghiệp dot-com, cho nên mặc dù ngân sách chi cho thúc đẩy bán hàng vẫn tăng đều hàng năm khoảng 8.1%, tổng ngân sách chi cho quảng cáo vẫn đã vượt lên chiếm khoảng 53% ngân sách, và thúc đẩy bán hàng chiếm khoảng 41%. Những con số trên nói lên một điều rằng dù tính hiệu quả và ưu việt của quảng cáo là một điều không ai có thể phủ nhận được, nhưng ngày càng có nhiều người nhận ra tầm quan trọng và tính hiệu quả kinh tế của các hoạt động thúc đẩy bán hàng.


    Tại VN, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thuộc loại "lấy công làm lời", chi phí quảng cáo là quá cao so với lợi nhuận thu lại được đến nỗi việc chi ra vài chục ngàn đô la để thực hiện một chiến dịch quảng cáo là điều hầu như mơ cũng không thấy. Trong tình hình như vậy, thúc đẩy bán hàng cùng với những hoạt động truyền thông BTL (below the line) khác chính là những công cụ mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải tận dụng khai thác, và khai thác một cách hiệu quả, thông minh để có thể cạnh tranh trên thị trường.


    Các hoạt động thúc đẩy bán hàng được phân ra thành 3 loại, nhắm tác động vào 3 đối tượng khác nhau:


    Khuyến mại (consumer promotion) - nhằm tác động vào người tiêu dùng.


    Khuyến mãi (trade promotion) - nhằm tác động vào các thành phần tham gia trong dây chuyền phân phối.


    Lực lượng bán hàng (sales force) - Nhằm tác động vào lực lược nhân viên bán hàng của chính doanh nghiệp.


    source: marketingchienluoc.com
     
  11. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Sandra Zoratti, phó chủ tịch phụ trách tiếp thị toàn cầu của tập đoàn IBM, bận rộn với kế hoạch thành lập công ty InfoPrint Solutions liên doanh giữa IBM và tập đoàn công nghệ Ricoh, nhằm chinh phục thị trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMB). Để đạt được mục tiêu này...


    Thị trường SMB được xác định theo nhiều cách khác nhau. Đương nhiên, thách thức chính đối với IBM là việc tìm kiếm một định nghĩa và phân khúc thị trường có liên quan để các công cụ trực tuyến có thể gạn lọc thoả đáng và nhánh chóng phân loại trực tiếp những công ty SMB, qua đó đảm bảo rằng nội dung và chất lượng dịch vụ thích hợp nhất với các nhu cầu của họ.


    Về mặt lịch sử, nhãn hiệu IBM có một sự hiện diện mạnh mẽ trong các công ty, tập đoàn lớn trên toàn thế giới. Nhưng các chuyên gia công nghệ hiện nay đều nhấn mạnh rằng tỷ lệ tăng trưởng các khoản đầu tư công nghệ thông tin trong thế giới SMB lớn hơn hẳn khối các doanh nghiệp lớn. Một vài năm trước đây, IBM đã quyết định chiến lược sẽ tối ưu hoá cơ hội kinh doanh tiềm năng này.


    Thách thức khó khăn


    Mặc dù nhận thức nhãn hiệu IBM trên thị trường rất mạnh mẽ, hãng vẫn nỗ lực hết mình để xây dựng và thúc đẩy sự quan tâm, yêu thích nhãn hiệu IBM trong thế giới SMB thông qua các nỗ lực mục tiêu trên 3 lĩnh vực chính:


    1. Có được lòng tin của các khách hàng SMB tiềm năng nhờ những mối quan hệ sâu sắc hơn với họ.


    2. Đảm bảo sự tương thích – qua đó IBM cung cấp các giải pháp và sản phẩm đáp ứng các nhu cầu của khách hàng SMB.


    3. Diễn giải rõ ràng cho các khách hàng và đại diện bán hàng SMB rằng IBM rất tiện lợi trong kinh doanh.


    Mô hình kinh doanh tiếp thị cho các SMB rất khác với những tập đoàn lớn khác. Trước tiên là sự khác biệt ở những nhu cầu của khách hàng. Thứ hai là các nhu cầu mối quan hệ hay mục tiêu doanh số. Và cuối cùng, số lượng các công ty nhỏ lớn hơn nhiều so với những tập đoàn lớn.


    Vì vậy, để hoàn thành ba mục tiêu đã hoạch định ở trên, thách thức là việc làm thế nào để tìm ra và thực thi một mô hình tiếp thị hiệu quả nhất giúp đỡ xây dựng các mối quan hệ mạnh mẽ hơn với khách hàng, nâng cao năng lực của đội ngũ bán hàng.


    Giải pháp của IBM: Tích hợp các phương pháp tiếp thị truyền thống với những công cụ giao tiếp trực tuyến và tương tác, qua đó đẩy mạnh các kết quả thu hút và giữ chân khách hàng SMB.


    Giới thiệu các công cụ tiếp thị trực tuyến


    Tập thể IBM đã thực thi một vài dạng thức công cụ tiếp thị trực tuyến, dưới đây là hai ví dụ cụ thể:


    1.Kho đại diện bán hàng (Sales Rep Store):


    Bao gồm một trang web nơi mà các nhà đại diện bán hàng có thể cung cấp những chào mời độc nhất cùng những thông điệp theo đúng yêu cầu khách hàng – ví dụ, trợ giúp cuộc sống, vấn đề thời gian nhạy cảm, các nội dung cá nhân hoá hay những đường link trợ giúp,.... Ngoài ra, nhiều hình ảnh nhà đại diện bán hàng và thông tin liên lạc cũng được đưa vào.


    Bằng việc giúp đỡ các nhà đại diện bán hàng tuỳ biến giao tiếp giữa họ và khách hàng, công cụ này hoàn toàn có thể đáp ứng mục tiêu xây dựng tính thích hợp của sản phẩm/dịch vụ.


    2. Kho khách hàng tương tác (Express customer store):


    Với định dạng tương tác cao và phong phú thông tin, công cụ này hỗ trợ các mục tiêu giải thích rằng IBM rất thích hợp, dễ sử dụng và sẽ nhanh chóng giúp đỡ có được lòng tin của khách hàng. Thông qua trang web nhỏ này, các khách hàng SMB có thể biết nhiều hơn về những giải pháp của IBM dựa trên các nhu cầu đơn nhất của họ.


    Đây là một tour hướng dẫn các khách hàng trên trang web, một dịch vụ trợ giúp cùng những thông tin được thiết kế theo nhu cầu khách hàng. Các khách hàng cũng có thể gửi câu hỏi tới bộ phận bán hàng, trao đổi thông tin và kiểm tra kỹ lưỡng mọi mặt trước khi ra quyết định mua sắm.


    “Bán” những công cụ mới


    Nhóm của Sandra cũng làm việc cật lực để đội ngũ nhân viên bán hàng sử dụng những công cụ trực tuyến mới. Để đạt được mục tiêu này, IBM nỗ lực đào tạo một cách có hệ thống cho đội ngũ bán hàng và tiếp thị về giá trị của những công cụ với nhiều minh chứng thành công và giải thích cách thức sử dụng dễ dàng.


    Phương thức tiếp thị tương tác tới các SMB này đã chứng minh giá trị trên một vài mặt. Ví dụ, các công cụ trực tuyến giúp đội ngũ bán hàng và tiếp thị làm việc hiệu suất hơn nhiều so với trước đây khi gia tăng thời gian mặt đối mặt với các khách hàng cùng với đó là tốc độ nhanh hơn của họ trong việc xây dựng các bài giới thiệu sản phẩm/dịch vụ và những dữ liệu bán hàng khác.


    Các khách hàng cũng bị cuốn hút bởi công cụ Express Customer Store của IBM. Ví dụ, trang web nhỏ này có mức độ tăng trưởng số lần truy cập lên đến 20%, trong số đó phần lớn là các chủ SMB - những người quyết định ghé thăm trang web sau khi nhận được email mời.


    Công cụ này giờ đang được triển khai rộng rại tại Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Italia, Bồ Đào Nha, Trung Quốc, Hàn Quốc và một vài quốc gia Mỹ Latinh khác. Nó còn nhận được giải thưởng Horizon Interactive Awards: “Best of Category” và giải thưởng của Hiệp hội Tiếp thị web (Web Marketing Association): “Best B2B Microsite/Landing Page”.


    Kết quả này đã thu hút được sự chú ý và trợ giúp từ phía ban quản lý cấp cao, họ cổ vũ những nỗ lực chung của tập thể và tiến hành các khích lệ cần thiết nhằm thúc đẩy chương trình phát triển mạnh mẽ. Rõ ràng dự án tiếp tục nhận được sự đầu tư và gắn kết từ nhiều phía.


    Trong việc phát triển các công cụ trực tuyến, đội ngũ SMB của IBM sử dụng một vài chiến lược để quản lý cả 4 hướng của “chiếc la bàn tiếp thị”.


    Đầu tiên, Sandra duy trì một trọng tâm mạnh mẽ vào các chiến lược cấp độ cao của công ty liên quan tới những kế hoạch phát triển kinh doanh và chuyển trọng tâm này vào phương pháp tiếp thị cụ thể. Đây là một nhân tố quyết định thành công và nhờ đó Sandra đã “quản lý hướng Nam” một cách hiệu quả.


    Bà cũng “quản lý hướng Đông” bằng việc xây dựng những chiếc cầu nối tới các bộ phận bán hàng. Sandra cho các nhân viên thấy rõ những công cụ bà đề xuất sẽ giúp đỡ họ nâng cao hiệu suất công việc.


    Sandra “quản lý hướng Nam” bằng việc vận dụng chương trình tiếp thị tương tác để chắc chắn rằng ngân quỹ dành cho tiếp thị luôn cân đối và chỉ số ROI (return on investment - lợi nhuận từ vốn) là tích cực, qua đó bà có thể đảm bảo tốt cho những gắn kết bổ sung.


    Và bà “quản lý hướng Tây” bằng việc phân tích làm thế nào các cơ hội mới được tạo ra từ công nghệ tương tác trên có thể giúp đỡ IBM trong việc thực thi một chiếc lược tiếp thị thành công nhất.


    Cuối cùng, thông qua quản lý và kiểm soát tốt bốn hướng của chiếc “la bàn” tiếp thị, Sandra có thể chuyển những ý tưởng của bà thành các nguồn lực và chương trình thực tế.


    Và các công cụ tiếp thị trực tiếp mới này sẽ minh chứng cho những giá trị tương xứng trong thời kỳ quá độ từ IBM Printing System Division sang Ricoh/IBM InfoPrint Solutions, đưa ra được một cơ hội tuyệt vời để thực thi thành công chiến lược kinh doanh tiếp thị trên thị trường SMB.


    Theo Bwportal


    source: http://www.marketingchienluoc.com
     
  12. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    bài này mình thu thập từ http://www.tamnhin.net. rất mong nhận đuợc sự quan tâm của các bạn :blink:


    Tiếp thị trong thế kỷ 21 không còn bó hẹp trong công thức 4P truyền thống nữa mà đã và đang mở rộng ra thêm 3P thành Công thức 7P. Những nỗ lực tiếp thị sẽ được tiếp thêm nhiều năng lực và đánh bại các đối thủ cạnh tranh với công thức mới này.


    Một khi bạn đã xây dựng xong chiến lược tiếp thị, công thức 7P nên được sử dụng để liên tục đánh giá và tái đánh giá các hoạt động kinh doanh của bạn. 7P đó là Product (Sản phẩm), Price (Giá), Promotion (Xúc tiến), Place (Địa điểm), Packaging (Đóng gói), Positioning (Định vị) và People (Con người). Trong bối cảnh các sản phẩm, thị trường, khách hàng và nhu cầu thay đổi nhanh chóng, bạn sẽ phải không ngừng quan tâm tới 7 chữ P này để chắc chắn rằng bạn vẫn đi đúng con đường và đạt được những kết quả tốt nhất có thể cho doanh nghiệp trên thị trường.


    1) Product – Sản phẩm


    Để bắt đầu, bạn hãy tạo dựng thói quen nhìn vào các sản phẩm của bạn như thể bạn là một nhà tư vấn tiếp thị bên ngoài được công ty thuê để giúp đỡ quyết định xem nên hay không nên đưa nó ra thị trường vào thời điểm này. Có nhiều câu hỏi quan trọng cần đặt ra, chẳng hạn như: Sản phẩm hay dịch vụ hiện tại có tương thích và phù hợp với thị trường và với các khách hàng ngày nay?


    Những thói quen đánh giá sản phẩm hay dịch vụ một cách chân thực và tự hỏi: Đó có phải là những sản phẩm hay dịch vụ thích hợp với các khách hàng của mình?” là rất quan trọng.


    Hãy so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Sản phẩm hay dịch vụ của bạn có vượt trội ở một vài phương diện nào đó? Nếu có, đó là cái gì? Còn nếu không, bạn có thể xây dựng cho sản phẩm hay dịch vụ những vượt trội như thế? Bạn có nên đưa ra sản phẩm hay dịch vụ này trong thị trường hiện tại?


    2) Prices - Giá


    Chữ P thứ hai đó là Price - Giá. Hãy phát triển thói quen thường xuyên xem xét và xem xét lại các mức giá của các sản phẩm và dịch vụ bạn đang cung cấp để đảm bảo rằng nó luôn phù hợp với thực tế của thị trường hiện tại. Đôi lúc bạn có thể cần giảm giá các sản phẩm, dịch vụ.


    Nhiều doanh nghiệp thấy rằng lợi nhuận của một sản phẩm hay dịch vụ nào đó không có sự tương đồng với các công sức và nguồn lực bỏ ra để sản xuất chúng. Bằng việc nâng giá, các doanh nghiệp có thể đánh mất một số lượng khách hàng, nhưng tỷ lệ % khách hàng còn lại có thể sẽ phát sinh lợi nhuận trên từng giao dịch bán hàng. Điều này có thích hợp với bạn?


    Đôi lúc bạn cần thay đổi các điều khoản và điều kiện bán hàng. Đôi lúc bằng việc kéo giãn mức giá của bạn trong một vài tháng hay một vài năm, bạn có thể bán được nhiều hàng hơn. Đôi lúc bạn có thể phối kết hợp sản phẩm và dịch vụ cùng với nhau để có các chào hàng hay các xúc tiến đặc biệt. Đôi lúc bạn có thể đưa vào một hai khuyến mãi nhỏ nào đó mà ít tốn kém chi phí song khiến mức giá của bạn hấp dẫn hơn đối với các khách hàng.


    Trong kinh doanh, đúng như bản chất của nó, bất cứ khi nào bạn thấy được một sự kháng cự hay thất vọng đối với bất cứ phần nào của các hoạt đông bán hàng hay tiếp thị, hãy sẵn sàng xem xét lại bộ phận đó. Hãy sẵn sàng với khả năng rằng cấu trúc giá cả hiện tại của bạn có thể chưa thích hợp với thị trường trong cùng thời điểm. Hãy sẵn sàng với nhu cầu đánh giá lại các mức giá nhằm duy trì tính cạnh tranh, sống sót và tăng trưởng trong một thị trường thay đổi nhanh chóng.


    3) Promotion – Quảng bá


    Thói quen thứ ba trong tiếp thị và bán hàng đó là suy nghĩ về việc quảng bá sản phẩm. Quảng bá sản phẩm bao gồm tất cả các cách thức bạn có thể nói với khách hàng về sản phẩm hay dịch vụ của bạn và làm thế nào bạn có thể tiếp thị và bán chúng.


    Những thay đổi nhỏ trong cách thức bạn quảng bá và bán sản phẩm, dịch vụ có thể dẫn tới những thay đổi lớn trong kết quả kinh doanh. Thậm chí cả những thay đổi nhỏ trong quảng cáo cũng có thể dẫn ngay tới doanh số bán hàng cao hơn. Các copywriter giàu kinh nghiệm có thể gia tăng tỷ lệ phản hồi của các quảng cáo lên tới 500% bằng đôi chút chỉnh sửa tiêu đề trên quảng cáo.


    Các doanh nghiệp lớn và nhỏ không ngừng nghỉ thử nghiệm các cách thức khác nhau để quảng cáo và bán sản phẩm hay dịch vụ của họ. Và đây là quy tắc: Sớm hay muộn, bất cứ phương pháp tiếp thị hay bán hàng nào bạn đang sử dụng ngày nay sẽ ngừng hiệu quả. Đôi lúc nó không còn hiệu quả vì một vài lý do bạn biết và đôi lúc vì một vài lý do bạn không biết. Trong mọi trường hợp, các phương pháp tiếp thị và bán hàng của bạn cuối cùng sẽ không còn hiệu quả nữa, và bạn sẽ phải tạo dựng những chiến lược, chào mời và phương pháp tiếp thị, bán hàng và quảng cáo mới.


    4) Place – Phân phối


    Chữ P thứ tư trong Công thức tiếp thị 7P đó là cách thức phân phối/kênh phân phối sản phẩm hay dịch vụ. Hãy phát triển thói quen xem xét và suy nghĩ kỹ lưỡng về kênh phân phối, nơi các khách hàng gặp gỡ nhân viên bán hàng. Đôi lúc sự thay đổi trong kênh phân phối sẽ dẫn tới kết quả tăng trưởng doanh số bán hàng mạnh mẽ.


    Bạn có thể bán sản phẩm của mình tại nhiều kênh phân phối khác nhau. Một vài công ty sử dụng cách thức bán hàng trực tiếp, cử các nhân viên bán hàng ra ngoài để tiếp xúc cá nhân và nói chuyện trực tiếp với các khách hàng. Một vài công ty sử dụng tiếp thị từ xa. Một vài công ty bán hàng qua catalogue hay thư đặt hàng. Một vài công ty bán hàng tại các hội trợ hay địa điểm bán lẻ. Một vài công ty bán hàng trong mối liên minh với các sản phẩm hay dịch vụ tương tự. Một vài công ty sử dụng các đại diện bán hàng hay các nhà phân phối đại lý. Và nhiều công ty kết hợp sử dụng một vài trong số các cách thức bán hàng trên.


    Trong mỗi trường hợp, bạn phải có được lựa chọn thích hợp về cách thức phân phối thích hợp nhất cho các khách hàng để nhận những thông tin mua sắm thiết yếu về sản phẩm hay dịch vụ cần thiết cho những quyết định mua sắm. Kênh phân phối của bạn là gì? Bạn cần thay đổi những gì? Nơi nào khác bạn có thể giới thiệu các sản phẩm hay dịch vụ của mình?


    5) Packaging – Đóng gói


    Chữ P thứ năm trong Công thức tiếp thị 7P đó là Packaging – Đóng gói. Hãy phát triển thói quen đứng đằng sau và nhìn vào từng yếu tố hình ảnh trong bao bì đóng gói sản phẩm hay dịch vụ của bạn thông qua con mắt của những khách hàng tiềm năng quan trọng. Bạn cần nhớ rằng mọi người định hình nên ấn tượng đầu tiên của họ về bạn trong vòng 30 giây đầu tiên khi nhìn thấy bạn hay thấy một vài yếu tố nào đó của doanh nghiệp. Những cải thiện nhỏ trong đóng gói hay bao bì bên ngoài sản phẩm hay dịch vụ có thể dẫn tới những phản ứng hoàn toàn khác biệt từ các khách hàng.


    Đối với đóng gói và bao bì sản phẩm hay dịch vụ, bạn nên suy nghĩ tới tất cả các yếu tố mà các khách hàng nhìn thấy đầu tiên trong các giao tiếp với công ty bạn theo tất cả các cách thức khác nhau thông qua quy trình mua sắm.


    Đóng gói liên quan tới hình thức bên ngoài của sản phẩm hay dịch vụ của bạn Ngoài ra, đóng gói liên quan tới các nhân viên của bạn và cách thức họ ăn mặc. Nó cũng liên quan tới văn phòng làm việc của bạn, tới phòng đợi của doanh nghiệp bạn, tới các tài liệu tiếp thị và tới từng giao tiếp hình ảnh về công ty bạn. Tất cả mọi thứ cần được đưa vào. Tất cả mọi thứ sẽ có tác động tích cực hay tiêu cực. Và tất cả mọi thứ tác động tới sự tin tưởng của các khách hàng trong giao dịch với bạn.


    Khi IBM bắt đầu kinh doanh dưới sự dẫn dắt của Thomas J. Watson, ông đã thấy rằng 99% hình ảnh về công ty mà một khách hàng thấy được là thông qua các nhân viên bán hàng của IBM. Do IBM bán những sản phẩm công nghệ cao, Watson biết các khách hàng sẽ phải có một độ tin cậy lớn khi tiếp xúc với các nhân viên bán hàng. Vì thế, ông xây dựng các chính sách ăn mặc và giao tiếp mà sau này trở thành các quy định không thể thay đổi tại IBM.


    Kết quả là từng nhân viên bán hàng được yêu cầu phải trông như những chuyên gia ở mọi khía cạnh. Từng yếu tố trong quần áo của họ (bao gồm bộ vest đen, cà vạt đen, áo sơ mi trắng, tóc chải ngay ngắn, giầy đánh bóng, móng tay sạch sẽ) và nhiều đặc điểm khác đã tạo dựng một hình ảnh về tính chuyên nghiệp và có năng lực. Một trong những lời tán thưởng cao nhất mà một người có thể nhận được đó là: “Bạn trông như ai đó ở IBM”.


    6) Positioning – Định vị


    Chữ P tiếp theo đó Positioning – Định vị. Bạn nên phát triển thói quen suy nghĩ về cách thức bạn được định vị trong trái tim và tâm trí các khách hàng của bạn. Mọi người suy nghĩ và nói về bạn như thế nào khi bạn không có mặt? Mọi người suy nghĩ và nói về công ty bạn như thế nào? Sự định vị nào bạn có trong thị trường của bạn, về các từ ngữ cụ thể mọi người sử dụng khi họ miêu tả về bạn và về những chào hàng của bạn tới họ?


    Hai tác giả Al Reis và Jack Trout trong cuốn sách nổi tiếng của mình là Positioning - Định vị đã chỉ ra rằng những suy nghĩ và nhìn nhận của các khách hàng về bạn là nhân tố quyết định thành công trong một thị trường cạnh tranh.


    Học thuyết Đặc tính nói rằng hầu hết các khách hàng nhìn nhận về bạn theo một cách thức đơn lẻ khác nhau, tích cực hay tiêu cực. Đôi lúc đó là “dịch vụ”. Đôi lúc đó là “xuất sắc”. Đôi lúc đó là “máy móc chất lượng” như đối với Mercedes Benz. Đôi lúc đó là “động cơ lái tột bực” như đối với BMW.


    Trong mọi trường hợp, mức độ những đặc tính này được in đậm và sâu trong tâm trí các khách hàng sẽ quyết định khả năng họ mua sắm sản phẩm hay dịch vụ của bạn, đồng thời quyết định họ sẽ mua bao nhiêu.


    Hãy phát triển thói quen suy nghĩ về cách thức bạn có thể cải thiện mức độ định vụ của mình. Hãy bắt đầu bằng việc xác định vị thế mà bạn thích có. Nếu bạn có thể tạo dựng được ấn tượng thích hợp trong trái tim và tâm trí các khách hàng, nó sẽ là gì? Bạn sẽ cần phải làm những gì trong từng giao tiếp với các khách hàng để các khách hàng suy nghĩ và nói về bạn đúng với cách thức bạn muốn? Những thay đổi nào bạn sẽ cần tới trong lối giao tiếp với khách hàng ngày nay để được nhìn nhận là sự lựa chọn mua sắm tốt nhất?


    7) People – Con người


    Chữ P cuối cùng đó là People – Con người. Bạn hãy phát triển thói quen suy nghĩ về những con người bên trong và bên ngoài của bạn vốn chịu trách nhiệm cho từng yếu tố trong các chiến lược và hoạt động tiếp thị hay bán hàng.


    Thật ngạc nhiên khi rất nhiều chủ doanh nghiệp hay các doanh nhân dành quá nhiều thời gian nghĩ về từng yếu tố của các chiến lược tiếp thị mà có ít sự quan tâm tới thực tế rằng mỗi một quyết định và chính sách được hiện bởi những con người cụ thể theo những cách thức cụ thể. Khả năng lựa chọn, tuyển dụng và giữ chân những con người thích hợp với những năng lực và kỹ năng tốt để hoàn thành công việc được giao phó là rất quan trọng.


    Trong cuốn sách best-selling của mình, Good to Great – Từ tốt tới vĩ đại, tác giả Jim Collins khám phá ra rằng yếu tố quan trọng nhất được áp dụng bởi các công ty tốt nhất đó là họ luôn đưa được những con người tốt nhất lên xe và đưa những con người kém cỏi ra khỏi xe. Một khi các công ty này tuyển dụng được những nhân viên thích hợp, bước thứ hai đó là đặt những con người thích hợp đó vào những chiếc ghế thích hợp trên xe.


    Để thành công trong kinh doanh, bạn phải phát triển được thói quen suy nghĩ về chính xác những ai sẽ thực hiện từng nhiệm vụ và trách nhiệm. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp sẽ chưa thể tiến lên cho đến khi bạn có thể thu hút và đặt những con người thích hợp vào những vị trí thích hợp. Không ít các kế hoạch kinh doanh tốt nhất được xây dựng song rồi bị bỏ vào ngăn bàn chỉ vì người xây dựng ra chúng không thể tìm kiếm những con người có khả năng thực thi thành công kế hoạch.


    Doãn Thắng (Theo St)


    source: http://www.tamnhin.net
     
  13. gấu kon online

    gấu kon online Moderator

    Tham gia ngày:
    27/6/08
    Bài viết:
    482
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nữ
    Nơi ở:
    Hung Yen, Hà Nội
    Đã là lạc hậu rồi cái thời tiếp thị theo kiểu chỉ chăm chăm miêu tả nhãn mác sản phẩm của mình để người dùng ghi nhớ. Bây giờ, ngày càng nhiều công ty đang cố hết sức để "nhắn nhủ" một thông điệp đầy tính cảm xúc đến khách hàng.


    Nếu có ai đó nói về Nike, bạn sẽ mường tượng ngay đến một cái gì đó trẻ trung, mạnh mẽ, được liên tưởng từ slogan "Just do it" (Tiến lên!). Hoặc nếu nói tới Google, đó sẽ là sự tin cậy, tốt lành với slogan "Dont do evil" (Đừng làm điều xấu). Chào mừng bạn đến với thế giới của "tiếp thị nhằm vào cảm xúc! Đã là lạc hậu rồi cái thời tiếp thị theo kiểu chỉ chăm chăm miêu tả nhãn mác sản phẩm của mình để người dùng ghi nhớ. Bây giờ, ngày càng nhiều công ty đang cố hết sức để "nhắn nhủ" một thông điệp đầy tính cảm xúc đến khách hàng. Một ví dụ rõ ràng là American Airlines (AA) và TWA. Trong khi AA có một thương hiệu nhấn mạnh vào vị trí của mình, và ngay cả slogan cũng mang tính "ấn tượng về chất lượng": "Something special in the air" (Một điều đặc biệt trên không), "Doing what we do best" (Chúng tôi đang làm những điều chúng tôi giỏi nhất)..., thì TWA lại được nhiều khách hàng yêu mến theo kiểu "quan hệ cá nhân" hơn, với slogan: "You're going to like us". (Các bạn sẽ thích chúng tôi). Tại sao tiếp thị nhằm vào cảm xúc lại trở thành xu hướng tất yếu cho ngành quảng cáo? Bởi khách hàng ngày càng chọn lọc hơn?...


    Có quá nhiều hãng cạnh tranh trong mỗi lĩnh vực sản phẩm, không còn sản phẩm nào là dạng "độc nhất" nữa. Mà nếu tất cả quảng cáo dầu gội đầu đều chỉ quảng cáo là "tốt nhất, sạch nhất, mượt tóc nhất" thì thực tế là khách hàng sẽ... không tin một quảng cáo nào trong số đó. Vì vậy, trong những quảng cáo cùng một mặt hàng, khách hàng sẽ có xu hướng thích những sản phẩm có liên quan phần nào đó đến mình - một cách cá nhân hoặc mang tính tình cảm.


    Và vì vậy, nhiệm vụ của các nhà quảng cáo là dùng mọi kỹ năng và thủ thuật để xây dựng một "cầu nối cảm xúc" giữa đối tượng khách hàng và sản phẩm/dịch vụ của mình.


    Như Bajaj (một hãng xe máy lớn của Ấn Độ) đã tung ra chiến dịch quảng cáo mới vào những năm 1990 khi thấy bắt đầu bị cạnh tranh dữ dội. Quảng cáo này đã làm cho thương hiệu Bajaj như thuộc về cả cộng đồng người Ấn qua những quảng cáo in trên báo đầy tính cảm xúc. Đó là hình hai người dân rất bình dị chở nhau trên chiếc xe của hãng Bajaj, người ngồi sau vác chiếc giường em bé. Quảng cáo này thông điệp rằng chiếc xe của họ gắn với tương lai của đất nước (các em bé) và gợi lên cảm xúc ấm áp, giản dị cho người tiêu dùng. Nhiều quảng cáo khác trên TV cũng là hình ảnh thường ngày của những con người rất bình thường, chứ không phải là những anh chàng bảnh bao giàu có. Chính vì vậy, cho đến nay, thương hiệu Bajaj vẫn có một vị trí rất đặc biệt trong trái tim người Ấn Độ, dù họ có mua xe của Bajaj hay không.


    Một ví dụ khác có thể là Cadburys (hãng bánh kẹo và đồ uống có trụ sở chính ở London ). Từ đầu những năm 1990, Cadburys luôn cố gắng truyền tải chỉ một thông điệp: các mối quan hệ và... ăn mừng. Tất cả các quảng cáo của họ đều chỉ mang một thông điệp này. Họ gắn liền thương hiệu của họ với mọi sự ăn mừng trong cuộc sống.


    Một phân tích đơn giản để thấy tại sao khách hàng có xu hướng gắn với một thương hiệu khi nó "chạm được" vào cảm xúc của họ. Thứ nhất, thương hiệu đó dường như trở thành phần mở rộng của con người họ, thể hiện tính cách của họ. Họ có thể liên tưởng và gắn những tình huống đời sống của họ với thương hiệu. Khi bạn thấy cậu bạn thân vừa làm một cú ăn ba điểm trên sân bóng rổ, bạn sẽ rất khoái và sau đó sẽ ăn mừng thế nào? Cadburys.


    Thứ hai, gắn với những cảm xúc và mong ước thầm kín là một công cụ rất mạnh mẽ. Bạn cảm thấy mình không đủ sức khoẻ để chơi bóng đá, nhưng bạn vẫn tập hợp được một đội và trận đầu ra quân đã chiến thắng. Bạn sẽ ăn mừng thế nào? Cadburys. Có rất nhiều ví dụ cho những lần ăn mừng trong cuộc sống của bạn, và Cadburys cũng có rất nhiều quảng cáo giống y như những tình huống đó.


    Cadburys làm được. Bajaj làm được. Vậy các công ty khác làm thế nào? Nếu bạn mở công ty, bạn sẽ làm thế nào? Câu trả lời nằm trong... não của khách hàng. Vì thương hiệu cảm xúc và tiếp thị nhằm vào cảm xúc chính là phần nổi của chiến lược "tại sao mọi người lại mua hàng".


    Các nhà nghiên cứu thị trường đã chỉ ra rằng trong rất nhiều trường hợp, khách hàng chọn một thương hiệu không đơn thuần dựa trên những lý do hợp logic, mà dựa trên cảm xúc và trái tim. Nhưng tất nhiên, để đảm bảo thành công, một thương hiệu phải kết hợp được cả hai vấn đề này: chất lượng và số lượng, trực giác và lý trí, giữa vấn đề "tại sao mọi người lại mua" với vấn đề "ai mua, mua cái gì, ở đâu, mua thế nào, mua bao nhiêu". Và tập hợp lại là những nguyên tắc rất cần thiết cho "tiếp thị theo cảm xúc", "tiếp thị để thành công":


    - Chạm đến cảm xúc rất bình dị, rất đời sống của khách hàng.


    - Đưa ra những đánh giá rất hợp lý để khách hàng cảm thấy mình có quyền tự do chọn lựa, quyết định và mua.


    - Làm cho khách hàng cảm thấy mình luôn được tôn trọng, được quan tâm, được là người thắng cuộc.


    - Thật hài hước, vui vẻ.


    (DDDN)


    source: http://www.openshare.com.vn/community/kien-thuc-marketing/4073-tiep-thi-cam-xuc.html
     
  14. rivalsumo

    rivalsumo Kết nối cộng đồng

    Tham gia ngày:
    2/4/08
    Bài viết:
    1,274
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Thực hiện Quy chế thi và cấp chứng chỉ Kiểm toán viên và chứng chỉ hành nghề kế toán ban hành theo Quyết định số 94/2007/QĐ-BTC ngày 16/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính; Công văn số 17784/BTC-TCCB ngày 31/12/2007 về việc cách tính điểm môn Ngoại ngữ; Công văn số 5822/BTC-CĐKT ngày 20/5/2008 về việc hướng dẫn điều kiện dự thi Kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề; Hội đồng thi Kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề cấp Nhà nước thông báo kỳ thi Kiểm toán viên lần thứ 15 và kế toán viên hành nghề lần thứ 5 và thi sát hạch đối với người có chứng chỉ chuyên gia kế toán hoặc chứng chỉ kiểm toán viên nước ngoài năm 2008 như sau:


    I- THI KIỂM TOÁN VIÊN


    1- Các môn thi, thời gian thi và hình thức thi:


    1.1- Người dự thi lần đầu: Thi 8 môn, trong đó:


    a- 06 môn thi viết, thời gian thi 180 phút/ 1 môn, gồm:


    (1) Pháp luật về kinh tế và Luật Doanh nghiệp;


    (2) Tài chính và quản lý tài chính nâng cao;


    (3) Thuế và quản lý thuế nâng cao;


    (4) Kế toán tài chính, kế toán quản trị nâng cao;


    (5) Kiểm toán và dịch vụ có đảm bảo nâng cao;


    (6) Phân tích hoạt động tài chính nâng cao.


    b- 02 môn thi điều kiện: Tin học và Ngoại ngữ (đạt điểm 5/10 là đạt yêu cầu), không tính vào tổng số điểm


    (7) Tin học (trình độ B): Thi thực hành trên máy tính 30 phút;


    (8) Ngoại ngữ (Trình độ C): Thi viết 60 phút, thi vấn đáp 30 phút.


    1.2- Người dự thi lại các môn thi chưa đạt yêu cầu, thi các môn chưa thi, thi nâng điểm: Người dự thi năm 2006, 2007, nay (2008) muốn thi lại các môn thi chưa đạt yêu cầu, thi các môn chưa thi, thi nâng điểm thì sẽ thi các môn và bảo lưu kết quả thi các môn đã thi theo quy định tại Quyết định số 59/2004/QĐ-BTC và Quyết định số 94/2007-QĐ-BTC gồm: (1) Pháp luật về kinh tế và Luật Doanh nghiệp; (2) Tài chính và quản lý tài chính nâng cao; (3) Tiền tệ tín dụng, (4) Kế toán tài chính, kế toán quản trị nâng cao; (5) Kiểm toán và dịch vụ có đảm bảo nâng cao; (6) Phân tích hoạt động tài chính nâng cao; (7) Tin học, (8) Ngoại ngữ. Trường hợp dự thi nâng điểm thì kết quả thi lấy theo điểm thi của lần thi có điểm cao nhất.


    Thời gian dự thi và hình thức thi: Các môn (1), (2), (3), (4), (5), (6) thi viết 180 phút. Môn (7) tin học thi viết 120 phút, thi thực hành trên máy 30 phút; Môn (8) Ngoại ngữ thi viết 60 phút, thi vấn đáp 30 phút.


    1.3- Người có chứng chỉ hành nghề kế toán dự thi chuyển tiếp lấy Chứng chỉ Kiểm toán viên: Thi 3 môn, gồm môn: (5) Kiểm toán và dịch vụ có đảm bảo nâng cao: Thi viết 180 phút; (6) Phân tích hoạt động tài chính nâng cao: Thi viết 180 phút; (8) Ngoại ngữ (Trình độ C): Thi viết 60 phút, thi vấn đáp 30 phút.


    2- Điều kiện dự thi


    2.1- Dự thi lần đầu:


    Người đăng ký dự thi lần đầu kỳ thi năm 2008 phải có đủ các điều kiện sau đây:


    a) Có lý lịch rõ ràng, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, liêm khiết, không thuộc các đối tượng không được hành nghề kế toán, hành nghề kiểm toán theo quy định của pháp luật.


    B) Có bằng Đại học kinh tế chuyên ngành Tài chính, Kế toán, Kiểm toán hoặc Bằng tốt nghiệp Đại học chuyên ngành kinh tế, quản trị doanh nghiệp, quản trị kinh doanh có tổng số đơn vị học trình các môn học: tài chính, Kế toán, Kiểm toán, Phân tích tài chính, Thuế trên 10% tổng số học trình cả khoá học. Riêng tổng số đơn vị học trình các môn học này được hiểu là:


    - Tổng số đơn vị học trình chỉ tính phần học lý thuyết và bài tập của các môn học, không tính số tiết quy đổi đơn vị học trình của báo cáo thực tập, báo cáo kiến tập, báo cáo thu hoạch của người học;


    - Trường hợp bảng điểm học đại học của người đăng ký dự thi không ghi rõ số đơn vị học trình mà chỉ ghi số tiết học của các môn học thì tổng số tiết học của các môn học: Tài chính, Kế toán, Kiểm toán, Phân tích tài chính, Thuế phải trên 10% tổng số tiết học của cả khoá học.


    c) Có thời gian công tác thực tế về Tài chính, Kế toán, Kiểm toán từ 5 năm trở lên kể từ năm ghi trên Bằng tốt nghiệp Đại học tính đến ngày 20/10/2008 (Bằng Đại học cấp năm 2003 trở về trước); hoặc thời gian thực tế làm trợ lý kiểm toán ở doanh nghiệp kiểm toán từ 4 năm trở lên kể từ năm ghi trên Bằng tốt nghiệp Đại học tính đến ngày 20/10/2008 (Bằng Đại học cấp năm 2004 trở về trước)


    d) Có chứng chỉ Tin học trình độ B trở lên.


    đ) Có chứng chỉ Ngoại ngữ từ trình độ C trở lên của 01 trong 05 thứ tiếng thông dụng: Anh, Pháp, Nga, Trung, Đức hoặc tốt nghiệp Đại học ở các nước học bằng 01 trong 05 thứ tiếng trên.


    h) Nộp đầy đủ, đúng mẫu hồ sơ và lệ phí theo quy định.


    2.2- Dự thi lại môn thi chưa đạt yêu cầu, thi nâng điểm hoặc thi tiếp các môn chưa thi: Phải có giấy chứng nhận điểm thi do Hội đồng thi kiểm toán viên cấp Nhà nước cấp. Các môn thi đạt yêu cầu của các kỳ thi trước chỉ được bảo lưu kết quả thi của kỳ thi năm 2006 và năm 2007.


    2.3- Dự thi chuyển tiếp lấy Chứng chỉ kiểm toán viên phải có các điều kiện sau đây:


    a) Có Chứng chỉ Ngoại ngữ trình độ C trở lên theo quy định tại tiết đ, điểm 2.1. mục 2, Phần I thông báo này;


    B) Có Chứng chỉ hành nghề kế toán được Bộ Tài chính cấp.


    II- THI KẾ TOÁN VIÊN HÀNH NGHỀ


    1- Các môn thi, thời gian và hình thức thi:


    1.1- Người dự thi lần đầu:


    a- 04 môn thi viết, thời gian 180 phút/ môn, gồm:


    (1) Pháp luật về kinh tế và Luật Doanh nghiệp;


    (2) Tài chính và quản lý tài chính nâng cao;


    (3) Thuế và quản lý thuế nâng cao;


    (4) Kế toán tài chính, kế toán quản trị nâng cao.


    b- Môn Tin học (Trình độ B): Thi thực hành trên máy vi tính 30 phút (Bằng máy tính xách tay hoặc máy để bàn). Đây là môn thi điều kiện (Đạt 5/10 điểm là đạt yêu cầu) không tính vào tổng số điểm.


    1.2- Người dự thi lại các môn thi chưa đạt yêu cầu , thi các môn chưa thi, thi nâng điểm: Người dự thi năm 2006, 2007, nay (2008) muốn thi lại các môn thi chưa đạt yêu cầu, thi các môn chưa thi, thi nâng điểm thì sẽ thi và bảo lưu kết quả các môn đã thi theo quy định tại Quyết định số 59/2004/QĐ-BTC và Quyết định số 94/2007/QĐ-BTC, gồm: (1) Pháp luật về kinh tế và Luật Doanh nghiệp; (2) Tài chính và quản lý tài chính nâng cao; (3) Tiền tệ tín dụng, (4) Kế toán tài chính, kế toán quản trị nâng cao; (5) Tin học. Trường hợp dự thi nâng điểm thì kết quả thi sẽ lấy theo điểm thi của lần thi có điểm cao nhất.


    Thời gian dự thi và hình thức dự thi: Các môn (1), (2), (3), (4) thi viết 180 phút. Môn Tin học thi viết 120 phút, thi thực hành trên máy vi tính 30 phút.


    2- Điều kiện dự thi


    2.1- Dự thi lần đầu


    Người đăng ký dự thi lần đầu kỳ thi năm 2008 phải có đủ các điều kiện sau đây:


    a) Phải có điều kiện quy định tại điểm a, d, h Mục 2.1 Phần I trên đây;


    B) Có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành Tài chính, Kế toán, Kiểm toán;


    c) Thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên kể từ năm ghi trên bằng tốt nghiệp đại học tính đến ngày 20/10/2008 (Bằng Đại học cấp năm 2003 trở về trước).


    2.2- Dự thi lại môn thi chưa đạt yêu cầu, thi nâng điểm hoặc thi tiếp các môn chưa thi


    Phải có giấy chứng nhận điểm thi kỳ thi năm 2006, 2007 do Hội đồng thi Kiểm toán viên cấp Nhà nước cấp.
     
  15. rivalsumo

    rivalsumo Kết nối cộng đồng

    Tham gia ngày:
    2/4/08
    Bài viết:
    1,274
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Hà Nội
    III- ĐĂNG KÝ DỰ THI


    1- Đăng ký dự thi lần đầu kỳ thi năm 2008


    a) Người đăng ký dự thi lần đầu để lấy Chứng chỉ kiểm toán viên có thể đăng ký dự thi cả 8 môn hoặc đăng ký dự thi tối thiểu 4 môn trong số 8 môn thi nói trên; các môn còn lại sẽ được đăng ký thi tiếp kỳ thi năm 2009 hoặc năm 2010.


    B) Người đăng ký dự thi lần đầu để lấy Chứng chỉ hành nghề kế toán có thể đăng ký dự thi cả 5 môn hoặc đăng ký dự thi tối thiểu 3 môn trong số 5 môn thi nói trên; các môn còn lại sẽ được đăng ký thi tiếp kỳ thi năm 2009 hoặc năm 2010.


    c) Người đăng ký dự thi chuyển tiếp lấy Chứng chỉ kiểm toán viên phải đăng ký dự thi đủ 3 môn quy định tại điểm 1.3, mục 1, Phần I thông báo này.


    d) Miễn thi môn ngoại ngữ cho các đối tượng sau:


    - Có bằng tốt nghiệp Đại học ngoại ngữ tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung, Đức hoặc tốt nghiệp Đại học ở các nước học bằng tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung, Đức;


    - Có chứng chỉ Anh văn Quốc tế TOEFL 450 điểm hoặc IELTS 5.0 điểm trở lên trong thời hạn 3 năm kể từ năm ghi trên chứng chỉ đến năm đăng ký dự thi;


    - Nam từ 50 tuổi, nữ từ 45 tuổi trở lên và có chứng chỉ trình độ C tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung, Đức trở lên.


    đ) Miễn thi môn Tin học cho người có bằng tốt nghiệp Đại học chuyên ngành công nghệ thông tin.


    e) Miễn thi môn Tin học và Ngoại ngữ cho người có Thẻ thẩm định viên về giá do tổ chức có thẩm quyền cấp.


    2- Đăng ký dự thi lại hoặc thi tiếp các môn chưa thi


    Những người đã dự thi kỳ thi năm 2006, 2007 nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc chưa thi hết các môn thi sẽ được đăng ký dự thi kỳ thi năm 2008 theo hướng dẫn sau:


    a) Đối với người dự thi lấy Chứng chỉ Kiểm toán viên: Đăng ký dự thi các môn chưa thi, thi lại các môn đã thi chưa đạt 5 điểm và có thể thi thêm các môn đã đạt từ 5 điểm trở lên (kể cả môn Tin học và môn Ngoại ngữ) để đảm bảo tổng số điểm tối thiểu 8 môn thi là 50 điểm.


    B) Đối với người dự thi lấy Chứng chỉ hành nghề kế toán: Đăng ký dự thi các môn chưa thi, thi lại các môn đã thi chưa đạt 5 điểm và có thể thi thêm các môn đã đạt từ 5 điểm trở lên (kể cả môn Tin học) để đảm bảo tổng số điểm tối thiểu 5 môn thi là 32 điểm.


    3- Người dự thi chỉ được thi các môn đã đăng ký


    IV- HỒ SƠ DỰ THI


    Mỗi người đăng ký dự thi Kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề nộp 01 bộ hồ sơ.


    1- Người dự thi lần đầu, hồ sơ gồm:


    a) Phiếu đăng ký dự thi có xác nhận của cơ quan quản lý và dán ảnh cỡ 4x6;


    B) Sơ yếu lý lịch có xác nhận của cơ quan quản lý hoặc Uỷ ban Nhân dân địa phương nơi thường trú;


    c) Các bản sao văn bằng chứng chỉ có xác nhận của tổ chức cấp hoặc cơ quan công chứng: Bằng Đại học, chứng chỉ ngoại ngữ, chứng chỉ tin học (photo dọc khổ giấy A4);


    d) 2 ảnh mầu cỡ 4x6 chụp năm 2008 ghi rõ họ tên, năm sinh phía sau ảnh và 2 phong bì có dán tem và ghi rõ họ tên, địa chỉ người nhận thông báo thi, kết quả thi.


    đ) Nếu là bằng tốt nghiệp Đại học chuyên ngành kinh tế, quản trị doanh nghiệp, quản trị kinh doanh thì phải nộp kèm theo bảng điểm có ghi rõ số đơn vị học trình của tất cả các môn học.


    2- Người thi lại hoặc thi tiếp các môn chưa thi, hồ sơ gồm:


    a) Phiếu đăng ký dự thi có xác nhận của cơ quan quản lý và dán ảnh cỡ 4x6;


    B) Bản sao Giấy chứng nhận điểm thi kỳ thi 2006, 2007 do Hội đồng thi kiểm toán viên cấp Nhà nước cấp;


    c) 2 ảnh màu cỡ 4x6 chụp năm 2008 ghi rõ họ tên, năm sinh phía sau ảnh và 2 phong bì có dán tem và ghi rõ họ tên, địa chỉ người nhận thông báo thi, kết quả thi.


    3- Người có Chứng chỉ hành nghề kế toán đăng ký dự thi chuyển tiếp lấy Chứng chỉ kiểm toán viên, hồ sơ gồm:


    a) Có đủ hồ sơ quy định tại điểm a, b, d mục 1, Phần IV thông báo này;


    B) Bản sao Chứng chỉ hành nghề kế toán do Bộ Tài chính cấp;


    c) Bản sao chứng chỉ ngoại ngữ có xác nhận của tổ chức cấp hoặc cơ quan công chứng.


    4- Phát hành hồ sơ dự thi: Từ ngày 20/8/2008 đến ngày 20/9/2008:


    a) Hồ sơ dự thi kiểm toán viên:


    - Tại Hà Nội: Văn phòng Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) - Phòng 504 Tòa nhà Dự án - Cục Tài chính doanh nghiệp - Số 4 Ngõ 1 Hàng Chuối - Hà Nội; Điện thoại: 04.9724334.


    - Tại TP. Hồ Chí Minh: Phòng 23 Lầu 1 Văn phòng Bộ Tài chính - 138 Nguyễn Thị Minh Khai - Quận 3 - TP. HCM; Điện thoại: 08.9306435.


    B) Hồ sơ dự thi kế toán viên hành nghề:


    - Tại Hà Nội: Văn phòng Trung ương Hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam - 192 Đường Giải Phóng - Hà Nội; Điện thoại: 04.8686714.


    - Tại TP. Hồ Chí Minh: Văn phòng Hội Kế toán TP. HCM - 142 Nguyễn Thị Minh Khai - Quận 3 - TP. HCM; Điện thoại: 08.9303908.


    5- Thời gian nhận hồ sơ: Từ ngày 20/8/2008 đến hết ngày 20/9/2008 tại các địa chỉ nêu tại mục 4, Phần IV thông báo này.


    6- Lệ phí dự thi: Chỉ tính cho những môn đăng ký dự thi theo mức thông báo tại nơi nhận hồ sơ. Lệ phí dự thi phải nộp khi nộp hồ sơ dự thi. Lệ phí thi đã nộp không được hoàn lại trừ trường hợp người dự thi đã được Hội đồng thi thông báo không đủ điều kiện dự thi năm 2008.


    7- Hồ sơ dự thi làm không theo mẫu quy định, không đầy đủ, lập không đúng theo thông báo này, hồ sơ của người không đủ điều kiện dự thi hoặc chưa nộp lệ phí dự thi, hồ sơ nộp sau ngày 20/9/2008 sẽ không được chấp nhận: Hồ sơ đã nộp không trả lại người đăng ký dự thi.


    V- THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM THI


    Thời gian thi dự kiến vào cuối tháng 10/2008 tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Lịch thi và địa điểm thi cụ thể Hội đồng thi sẽ thông báo cho từng người đủ điều kiện dự thi vào đầu tháng 10/2008 và thông báo trên Website của Bộ Tài chính.


    VI- THI SÁT HẠCH ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CHỨNG CHỈ CHUYÊN GIA KẾ TOÁN HOẶC CHỨNG CHỈ KIỂM TOÁN VIÊN NƯỚC NGOÀI


    1- Điều kiện dự thi:


    a) Những người có Chứng chỉ chuyên gia kế toán hoặc chứng chỉ Kiểm toán viên của các tổ chức nước ngoài được Bộ Tài chính Việt Nam thừa nhận, muốn được cấp “Chứng chỉ kiểm toán viên” hoặc “Chứng chỉ hành nghề kế toán” của Việt Nam thì phải dự thi sát hạch kiến thức về luật pháp Việt Nam. Người dự thi sát hạch phải là người đang được phép hành nghề của nước sở tại;


    B) Tổ chức nghề nghiệp nước ngoài được Bộ Tài chính Việt Nam thừa nhận phải có các điều kiện: (1) Là thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC); (2) Có nội dung học và thi tương đương hoặc cao hơn nội dung học và thi theo quy định tại Điều 4 Quyết định số 94/2007/QĐ- BTC ngày 16/11/2007 của Bộ Tài chính;


    c) Những người đã hoàn thành khoá huấn luyện theo chương trình đào tạo chuyên gia kế toán trong khuôn khổ Dự án Kế toán- Kiểm toán do Bộ Tài chính Việt Nam và Liên minh Châu Âu phối hợp tổ chức tại Hà Nội năm 1998, nếu có đủ các điều kiện quy định tại khoản 2, Điều 2 của Quyết định số 94/2007/QĐ- BTC thì được dự thi sát hạch kiến thức về pháp luật Việt Nam để nhận Chứng chỉ kiểm toán viên theo quy định tại điểm a mục 1 phần IV nói trên.


    Trường hợp tổ chức cấp chứng chỉ chuyên gia kế toán hoặc chứng chỉ kiểm toán viên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hành nghề tại nước sở tại (Không phải là tổ chức nghề nghiệp) thì người dự thi phải là hội viên chính thức của tổ chức nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán và tổ chức nghề nghiệp đó phải là thành viên của Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC). Nội dung học và thi để lấy chứng chỉ chuyên gia kế toán hoặc chứng chỉ kiểm toán viên phải tương đương hoặc cao hơn nội dung học và thi theo quy định tại Điều 4 của Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 94/2007/QĐ-BTC ngày 16/11/2007.


    2- Thời gian thi: Dự kiến vào cuối tháng 10/2008


    3- Địa điểm thi: Tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.


    4- Nội dung và cách thức thi sát hạch: Theo quy định tại Điều 17 - Chương III của Quy chế thi và cấp Chứng chỉ KTV và Chứng chỉ hành nghề kế toán (Ban hành theo Quyết định số 94/2007/QĐ-BTC ngày 16/11/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính).


    Những người đã tham dự 2 môn thi (Luật và Thuế Việt Nam) theo chương trình thi phối hợp giữa Bộ Tài chính Việt Nam với Hiệp hội kế toán viên công chứng Anh (ACCA) thì được miễn thi Phần (1) Pháp luật về kinh tế, Luật Đầu tư và Luật doanh nghiệp và Phần (3) Pháp luật về thuế và quản lý thuế.


    Việc tính điểm cho 2 phần miễn thi trên đây theo nguyên tắc:


    - Thi 5 phần phải đạt 70 điểm;


    - Thi 3 phần phải đạt 42 điểm (70/5x3)


    Bộ Tài chính đề nghị các công ty thông báo dự kiến số lượng người dự thi sát hạch hoặc danh sách người dự thi sát hạch trước ngày 10/9/2008 để Bộ Tài chính có kế hoạch cụ thể. Trên cơ sở đăng ký của các công ty, Bộ Tài chính sẽ có Quyết định chính thức về tổ chức kỳ thi và thông báo cụ thể cho công ty.


    Danh sách người dự thi hoặc dự kiến số lượng người dự thi gửi về Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán - Bộ Tài chính- Số 28 Trần Hưng Đạo - Hà Nội.


    5- Hồ sơ đăng ký dự thi gồm:


    a) Phiếu đăng ký dự thi;


    B) Bản sao và bản dịch ra tiếng Việt có công chứng Chứng chỉ chuyên gia kế toán hoặc Chứng chỉ KTV do tổ chức nước ngoài cấp;


    c) Tài liệu chứng minh tổ chức nghề nghiệp đã cấp Chứng chỉ chuyên gia kế toán hoặc Chứng chỉ kiểm toán viên cho người dự thi là thành viên của Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC);


    d) Tài liệu trình bày về nội dung học và thi để lấy Chứng chỉ chuyên gia kế toán hoặc Chứng chỉ kiểm toán viên của tổ chức nghề nghiệp đã cấp chứng chỉ cho người dự thi;


    đ) Giấy xác nhận của Hội nghề nghiệp của nước sở tại là đang được phép hành nghề ở nước sở tại. Trường hợp Chứng chỉ chuyên gia kế toán hoặc Chứng chỉ KTV của người dự thi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (không phải là tổ chức nghề nghiệp) cấp thì trong hồ sơ dự thi phải có giấy xác nhận của tổ chức nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán xác nhận người dự thi là hội viên chính thức của tổ chức nghề nghiệp.


    e) 03 tấm ảnh cỡ 4x6 chụp năm 2008, 02 phong bì dán tem ghi rõ họ tên, địa chỉ của người nhận;


    g) Bản sao hộ chiếu do nước sở tại cấp có xác nhận của đơn vị quản lý lao động đối với người dự thi là người nước ngoài;


    h) Những người đã tham dự 2 môn thi (Luật và Thuế Việt Nam) theo chương trình thi phối hợp giữa Bộ Tài chính Việt Nam với Hiệp hội kế toán viên công chứng Anh (ACCA), trong hồ sơ phải bổ sung thêm chứng nhận của ACCA là đã tham gia thi 2 môn thi phối hợp trong kỳ thi giữa Bộ Tài chính Việt Nam với ACCA.


    6- Hồ sơ thi sát hạch mua và nộp tại Vụ Chế độ kế toán và kiểm toán - Bộ Tài chính - Số 28 Trần Hưng Đạo - Hà Nội từ ngày 20/8/2008 đến hết ngày 20/9/2008.


    Thông tin chi tiết về kỳ thi năm 2008 xem Quyết định số 94/2007/QĐ-BTC ngày 16/11/2007 của Bộ Tài chính và bản tin trên website của Bộ Tài chính./.
     
  16. rivalsumo

    rivalsumo Kết nối cộng đồng

    Tham gia ngày:
    2/4/08
    Bài viết:
    1,274
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Hà Nội
    "Kỹ xảo giao dịch trên TTCK" là cụm từ dùng để chỉ hành vi của nhà đầu tư (NĐT) dày kinh nghiệm sử dụng cách giao dịch khớp lệnh hiện hành (trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP. HCM) để đạt mục tiêu bán cổ phiếu (CP) với giá cao hoặc mua CP với giá thấp. Với NĐT "non nghề", việc nhận diện ra các kỹ xảo giao dịch là rất cần thiết để tránh bị "sập bẫy". Với cơ quan quản lý, nhiều kỹ xảo giao dịch dưới đây có thể coi như những minh chứng sống động cho hành vi làm giá đã và đang diễn ra trên TTCK.


    Chúng tôi xin đăng tải 8 kỹ xảo giao dịch do một NĐT nhiều năm lăn lộn trên TTCK Việt Nam đúc kết nên, với hy vọng giúp các NĐT nhỏ có thể tự lý giải khi gặp những biến chuyển bất thường trên TTCK và biết cách bảo vệ mình trước cách "ra đòn" của các "đại gia" (NĐT có tiềm lực tài chính mạnh).


    1. Bán CP giá sàn tạo tâm lý hoảng loạn: Đây là cách mà NĐT lớn thường sử dụng khi họ muốn mua CP ở giá rẻ hơn so với giá thị trường. NĐT này sẽ chủ động bán CP giá sàn ào ạt ở tài khoản A để tạo tâm lý hoảng loạn nơi các NĐT nhỏ. Trước hiện tượng tranh bán, NĐT nhỏ thường suy luận rằng, chắc công ty phát hành có tin xấu nên người ta mới bán tháo CP và nhao nhao bán ra theo giá sàn. Khi đó, NĐT lớn sẽ dùng tài khoản B hay C (trong hệ thống tài khoản của mình) ung dung mua lại số CP do chính mình vừa đặt bán và thu mua thêm CP của các NĐT khác bán ra ở giá rẻ. Khi NĐT lớn thấy lượng CP cần mua đã mua đủ, họ sẽ dừng "diễn kịch".


    2. Mua CP giá trần tạo tâm lý hưng phấn: Khi muốn bán được CP ở giá cao, "đại gia" lại thường sử dụng chiêu bài dùng tài khoản A đặt mua ào ạt CP ở giá trần, nhằm tạo tâm lý hưng phấn cho các NĐT khác. Khi thấy một lượng lớn CP được đặt mua giá trần, nhiều người cho rằng, chắc là công ty phát hành có tin tốt, nên người ta mới dám mua cao như thế và cũng đặt mua ào ào theo giá trần. Khi đó, "đại gia" sẽ dùng tài khoản B bán dần CP ra ở giá thấp, với số lượng bán lớn hơn số lượng đặt mua ở tài khoản A. Ví dụ, mua 30.000 CP ở tài khoản A, bán 50.000 CP ở tài khoản B, nhờ đó NĐT sẽ bán được 20.000 CP ở giá tốt. Vài hôm sau, NĐT này "ngừng diễn", giá CP sẽ đứng hoặc đi xuống, ai mua theo bị thiệt thòi.


    Thực tế, có những phiên giao dịch xuất hiện 2 hiện tượng trên, nhưng lại không phải là kỹ xảo của NĐT lớn tạo ra mà do tác động của thông tin thật. Để phân biệt được khi nào TTCK chịu tác động của kỹ xảo giao dịch, khi nào chịu tác động của thông tin thật, đòi hỏi NĐT phải có kinh nghiệm và bản lĩnh. Quan sát trên sàn giao dịch cho thấy, nhiều NĐT thiếu kinh nghiệm chơi chứng khoán ngắn hạn đã bị “thua liểng xiểng” chỉ vì không nhận biết được các kỹ xảo giao dịch.


    Hai kỹ xảo nói trên có thể giúp NĐT lớn trục lợi, nhưng cũng có thể bị hoá giải nếu một "đại gia" khác "biết bài" và đối lại cách mua, bán của NĐT lớn. Cụ thể, kỹ xảo bán giá sàn có thể hoá giải bằng cách đặt mua ngay giá trần sẽ khiến NĐT lớn bán CP giá sàn bị mua mất ngay số CP không muốn bán. Kỹ xảo mua giá trần cũng sẽ bị hoá giải nếu có "đại gia" khác bán ngay CP giá sàn, trường hợp này NĐT lớn đặt mua giá trần sẽ phải mua ngay số CP không mong muốn.


    3. Bán chặn giá trên: Kỹ xảo này cũng nhằm mục đích mua rẻ, nhưng nhẹ tay hơn kỹ xảo 1. "Đại gia" muốn mua CP giá rẻ, nhưng hoàn cảnh thị trường không cho phép thực hiện kỹ xảo 1, sẽ bán ra số lượng CP rất lớn ở tài khoản A ngay từ đầu giờ ở giá tham chiếu chẳng hạn. Trong khi ở tài khoản B, "đại gia" này chỉ đặt mua CP với lượng vừa phải và đặt giá dưới tham chiếu. Thế là ai muốn bán phải tranh bán dưới giá tham chiếu và số CP bán dưới giá tham chiếu này sẽ dễ dàng "sa bẫy" của "đại gia".


    4. Mua chặn giá dưới: Kỹ xảo này nhằm bán được giá cao, song nhẹ tay hơn kỹ xảo 2. Ngay từ đầu giờ giao dịch, NĐT lớn đặt mua số lượng lớn CP ở giá tham chiếu tại tài khoản A và đặt bán số lượng nhỏ ở giá cao hơn giá tham chiếu tại tài khoản B. Thấy lượng cung ít quá so với lượng cầu, những NĐT nhỏ lao vào đặt mua giá cao để mua bằng được sẽ bị "mắc bẫy" vì ở một tài khoản khác, NĐT lớn đã trực sẵn lệnh bán lượng lớn CP với giá cao.


    Các kỹ xảo 1, 2, 3, 4 nói trên làm môi trường giao dịch CP mất đi sự lành mạnh và NĐT nhỏ là người chịu thiệt thòi nhất.


    5. "Rải đinh" che giá mua thật: NĐT lớn hay nhỏ đều có thể dùng kỹ xảo này để mua được giá tốt nếu không muốn mua trần. Đặt 3 lệnh ở 3 mức giá cao nhất, mỗi lệnh chỉ mua 1 lô, ví dụ 1 lô mua tại giá 35.000 đồng, 1 lô mua giá 34.900 đồng và 1 lô mua giá 34.800 đồng. Khi đó toàn bộ các lệnh mua khác bị che khuất, vì bảng điện tử chỉ cho phép hiện 3 mức giá mua cao nhất. Phía sau những thông số giả trên bảng điện là cuộc đấu trí thú vị giữa các NĐT. Có khi phần thắng lại thuộc về người không chủ động "rải đinh". NĐT nước ngoài kinh doanh trên TTCK Việt Nam cũng học được cách "rải đinh", song họ có tiềm lực tài chính mạnh, nên thường "rải đinh" to như mua 100 lô tại giá 27.000 đồng; 100 lô tại 26.900 đồng và 100 lô tại 26.800 đồng.


    6. "Rải đinh" che giá bán thật: Ngược lại với "rải đinh" mua, cách "rải đinh" bán được thực hiện như sau: NĐT đặt bán ở 3 mức giá sàn thấp nhất, ví dụ bán 1 lô giá 32.200 đồng, 1 lô giá 32.300 đồng, 1 lô 32.400 đồng, khiến các lệnh bán khác bị che lấp hoàn toàn. NĐT lớn hay nhỏ đều có thể dùng kỹ xảo này để bán được giá tốt, nếu không muốn bán giá sàn.


    Khi gặp kỹ xảo "rải đinh", NĐT nên để ý giá khớp dự kiến. Nếu muốn mua, nên đặt trên giá khớp dự kiến 300 đồng đến 500 đồng là có thể mua được. Nếu muốn bán, nên đặt giá bán dưới giá khớp dự kiến 300 đồng đến 500 đồng là có thể bán được. Tuy nhiên, khi có NĐT nào đó hứng lên đặt mua CP ngay giá trần hoặc bán CP ngay giá sàn thì kỹ xảo 5 và 6 hoàn toàn mất tác dụng.


    7. "Rải đinh" để khớp mua giá thấp: Khi TTCK không "nóng" thì kỹ xảo này rất có tác dụng. Kỹ xảo này có đặc điểm là không đặt mua tất cả lượng CP muốn mua ở một mức giá, mà rải ra vài mức giá. Đây là sự lợi dụng nguyên tắc so sánh các sổ lệnh để khớp lệnh ở mức giá gần nhất. Ví dụ, bên bán có 5.000 CP bán ở giá sàn 24.900 đồng; nếu bên mua đặt 2.000 CP giá trần 27.500 đồng thì thị trường sẽ khớp giá tham chiếu 26.200 đồng. Song nếu bên mua lại đặt mua 1.500 CP giá trần 27.500 đồng; 200 CP ở giá 27.400 đồng; 200 CP ở giá 27.300 đồng và 100 CP ở giá sàn 24.900 đồng thì người mua sẽ được mua giá sàn.


    8. "Rải đinh" để khớp bán giá cao: Có trường hợp CP khớp giá 33.600 đồng, nhưng vẫn còn dư mua tại giá 44.100 đồng. Trong trường hợp này, nếu người bán tinh ý thực hiện "rải đinh" ở giá bán 44.100 đồng thì CP đó sẽ chuyển sang khớp tại giá 44.100 đồng. Người bán sẽ bán được CP với giá cao hơn 500 đồng so với cách không dùng kỹ xảo. Do đó, khi muốn bán CP, nên quan sát đặt nhiều mức giá để khớp được giá tốt nhất.


    Kỹ xảo 7 và 8 đòi hỏi NĐT phải nhanh mắt và có trí nhớ tốt để "rải đinh" chuẩn xác. Các kỹ xảo 5, 6, 7, 8 nhằm giúp NĐT mua, bán CP theo giá tốt nhất và không gây hại cho môi trường đầu tư.


    Sưu tầm
     
  17. rivalsumo

    rivalsumo Kết nối cộng đồng

    Tham gia ngày:
    2/4/08
    Bài viết:
    1,274
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Lượng sinh viên CNTT tốt nghiệp hằng năm đều tăng nhưng phần lớn còn thiếu nhiều kỹ năng như truyền thông, làm việc nhóm, tư duy độc lập..., là kết quả khảo sát nhân lực của 74 doanh nghiệp có ứng dụng CNTT do Hội tin học TP HCM (HCA) thực hiện, vừa được công bố.


    Phó giáo sư, Tiến sĩ Trương Mỹ Dung, Hiệu trưởng trường đại học Khoa học tự nhiên TP HCM, nhận định: "Các thông số về đào tạo nhân lực tăng đều 3 năm, nhưng những thách thức trong việc đào tạo chất lượng đang là vấn đề đáng quan tâm hơn".


    Trong báo cáo "Toàn cảnh về đào tạo nguồn nhân lực CNTT VN hiện nay", bà Dung phân tích những thách thức về chất lượng ngành đang phải đối mặt: sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ, phải đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế - đặc biệt là nguồn nhân lực phục vụ cho gia công xuất khẩu (oursource) cho các tập đoàn lớn đầu tư vào VN.


    Ngoài ra, các áp lực về kỹ năng chuyên nghiệp, ngoại ngữ, năng suất lao động so với các quốc gia khác... cũng là những yếu tố quan trọng cần tập trung khi đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho ngành này.


    Theo báo cáo này, hiện 390 trường trong cả nước có những chuyên ngành đào tạo liên quan đến lĩnh vực CNTT, tăng 43 trường so với năm trước. Trong đó, tổng số lượng tuyển sinh đào tạo năm nay là hơn 50 nghìn. So với năm 2007 con số này tăng hơn 11 nghìn sinh viên.


    Bản đánh giá về chất lượng sinh viên mới ra trường của HCA cũng cho thấy các doanh nghiệp đều nêu lên thực trạng đầu tiên là "khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh của sinh viên IT phần lớn còn kém, khả năng trình bày, cập nhật công nghệ mới còn yếu".


    Các nhà kinh doanh còn nhận định, sinh viên CNTT mới ra trường còn thiếu kiến thức, khả năng tư duy, làm việc độc lập... Từ đó, các cơ sở đào tạo được doanh nghiệp khuyến cáo là cần đưa nhiều môn học kỹ năng mềm vào chương trình giảng dạy như truyền thông và phương pháp làm việc nhóm.


    Ông Phí Anh Tuấn, Giám đốc tập đoàn công nghệ CMC, nhận định: "Sinh viên CNTT hiện nay sau khi được đào tạo có đầy đủ kiến thức về chuyên môn nhưng thiếu kỹ năng cũng như kinh nghiệm để bộc lộ năng lực bản thân". Theo ông Tuấn, sau quá trình tiếp thu những nền tảng về chuyên môn tại môi trường đại học, cao đẳng... sinh viên cần được doanh nghiệp hỗ trợ đào tạo bổ sung các kỹ năng còn thiếu để rèn luyện chất lượng hiệu quả hơn.


    Theo VnExpress
     
  18. rivalsumo

    rivalsumo Kết nối cộng đồng

    Tham gia ngày:
    2/4/08
    Bài viết:
    1,274
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Tình trạng thiếu hụt các kỹ năng cơ bản tiếp tục đẩy mức lương của các nhân viên công nghệ thông tin (IT) lên cao trên toàn cầu.


    Khảo sát hàng năm trong năm 2007 của hãng tuyển dụng quốc tế Robert Walters cho thấy mức lương của cả nhân viên CNTT hợp đồng lẫn nhân viên ký kết lâu năm trên toàn cầu đều tăng cao. Mức tăng đặc biệt mạnh trong quý II và quý III/2007. Duy chỉ có nhân viên IT trong ngành ngân hàng tăng chậm hơn do những khó khăn trong việc thu hồi nợ trong quý cuối cùng của năm.


    Tình trạng thiếu hụt các kỹ năng cơ bản vẫn xảy ra trong các ngành cụ thể như phát triển và giải pháp, quản trị cơ sở dữ liệu, kiểm định từ cấp trung lên cấp cao hơn.


    Thêm vào đó, thiếu các quản lý dự án và nhân viên hỗ trợ kỹ thuật cũng khiến mức lương tăng cao. Khảo sát phát hiện ra lực lượng nhân sự IT còn thiếu các kỹ năng về các phần mềm SAP, Oracle và Microsoft.


    Ngoài ra, xu hướng thuê ngoài (outsourcing) cũng khiến các nhân viên lâu năm trở thành những nhân viên hợp đồng.


    Theo ICTNews/Computer World
     
  19. rivalsumo

    rivalsumo Kết nối cộng đồng

    Tham gia ngày:
    2/4/08
    Bài viết:
    1,274
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Chủ tịch TMA than thở cứ mỗi lần tuyển dụng, chỉ có khoảng 5-10% ứng viên đạt yêu cầu về kỹ năng thực hành và giao tiếp.


    Tiếng thở dài của ông Nguyễn Hữu Lệ, Chủ tịch một trong những công ty phần mềm lớn nhất Việt Nam có trụ sở tại TP.HCM cũng là tiếng thở dài của rất nhiều doanh nghiệp CNTT-TT đang đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Nhà máy lắp ráp và kiểm định chip (ATM) của Tập đoàn Intel tại Việt Nam - cũng là nhà máy ATM lớn nhất của Intel trên toàn cầu - đang trong giai đoạn gấp rút xây dựng để có thể kịp đi vào sản xuất cuối năm 2009, với nhu cầu tuyển dụng khoảng 4.000 nhân viên, nhưng trên thực tế, Intel không hề dễ dàng tuyển dụng nhân viên. "Nếu dự án này được triển khai tốt và nhu cầu của thị trường tăng lên thì khả năng mở rộng nhà máy ATM tại Việt Nam là rất lớn", bà Hồ Thị Thu Uyên, Giám đốc đối ngoại Intel Products Việt Nam cho biết, song bà cũng bày tỏ lo lắng: "Tuy nhiên, khó khăn trong tuyển dụng nhân lực là khó khăn hàng đầu mà Intel Việt Nam đang phải đối mặt. Thực sự, thị trường lao động đang thiếu trầm trọng các kỹ sư tài năng để có thể làm việc trong nhà máy ATM của chúng tôi".


    Không chỉ thiếu kỹ sư tài năng, nhà máy ATM của Intel còn thiếu cả các vị trí lãnh đạo nhóm chuyên ngành kỹ thuật, khi mà những nhân vật đảm nhận được cương vị giám đốc kỹ thuật chỉ đếm trên đầu ngón tay; và thiếu đội ngũ kỹ thuật viên có khả năng sẵn sàng làm việc ngay, bởi họ không có đủ kinh nghiệm và khả năng tiếng Anh. "Trong môi trường nhà máy của Intel, chúng tôi rất ưu tiên tuyển dụng các nữ kỹ thuật viên, song đối tượng này chiếm chưa đến 5% số lượng sinh viên tốt nghiệp từ các trường kỹ thuật", bà Uyên nói.


    Câu chuyện từ Công ty thiết kế Renesas Việt Nam cũng phản ánh khó khăn lớn nhất mà các công ty công nghệ đang phải đối mặt. Công ty này có nhu cầu tuyển 500 kỹ sư cho giai đoạn đầu phát triển, nhưng trong 2 năm chỉ tuyển được 60 người trong số 1.000 người có đơn xin tuyển. Hơn nữa, số được tuyển còn phải đào tạo thêm từ 3 đến 6 tháng mới có thể làm việc, đại diện công ty này cho biết.


    Không chỉ khó khăn trong tuyển dụng, việc bùng nổ đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao cũng đã tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt về nguồn nhân lực trình độ cao ngay giữa các tập đoàn công nghệ nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. "Các nhân viên của Intel cũng đang trở thành những mục tiêu săn đuổi được ưu tiên với những head-hunter (các công ty săn đầu người) do kinh nghiệm làm việc tại các công ty nước ngoài", bà Hồ Thị Thu Uyên nhận xét. "Bản thân Intel cũng không dễ hút các nhân vật cao cấp từ các doanh nghiệp cùng ngành, do cơ chế phúc lợi không thể tạo được sự cách biệt quá lớn".


    Tích cực tìm cách giải "cơn khát"


    Theo khảo sát của Ngân hàng Thế giới (WB) trong năm 2007 được công bố hồi đầu năm 2008, có tới 60% lao động trẻ tốt nghiệp từ các trường dạy nghề và trường cao đẳng tại Việt Nam cần được đào tạo lại ngay sau khi được tuyển dụng. Một số doanh nghiệp phần mềm phải đào tạo lại tới 80-90% những sinh viên tốt nghiệp vừa được tuyển dụng trong thời gian ít nhất 1 năm.


    "Hiện nay, cứ 100 người lao động tham gia tuyển dụng thì chỉ có khoảng 10 người đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ cao", Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thiện Nhân thừa nhận, đồng thời ông cũng chỉ rõ: "Trong 3 năm tới, nếu không giải được bài toán làm sao để nguồn nhân lực CNTT-TT đáp ứng được nhu cầu của xã hội, chúng ta sẽ lỡ hết các cơ hội".


    Trong "cơn khát" nguồn nhân lực, các doanh nghiệp cả phần cứng lẫn phần mềm, cả nước ngoài lẫn nội địa đều tích cực tìm nguồn "giải khát", như chấp nhận tuyển dụng rồi đào tạo lại, hợp tác chuyển giao giáo trình đào tạo cho các trường đại học, cao đẳng, trao học bổng kỹ thuật, cử nhân viên ra nước ngoài đào tạo...


    Intel Products Việt Nam hiện đã tuyển dụng được hơn 40 kỹ sư từ 5 trường đại học trên cả nước và họ đã cử toàn bộ số kỹ sư được tuyển dụng này đi đào tạo tại các nhà máy ATM của Intel tại Malaysia, Costa Rica và Mỹ. Bên cạnh đó, Intel tiếp tục triển khai chương trình trao học bổng kỹ thuật cho sinh viên các trường ĐH kỹ thuật. "Đã có 55 sinh viên từ 5 trường ĐH kỹ thuật Việt Nam nhận được học bổng kỹ thuật của Intel. Những sinh viên này sẽ có cơ hội thực tập và làm việc cho Intel Việt Nam trong thời gian tới", ông Rich Howard, Tổng giám đốc Intel Products Việt Nam cho biết.


    Tuy nhiên, đại diện các doanh nghiệp công nghệ cao đều có chung một nhận định, nỗ lực giải bài toán nhân lực của họ rất khó đạt hiệu quả nếu thiếu đi sự tích cực và đồng bộ từ phía các cơ quan quản lý ngành giáo dục và CNTT, cũng như từ phía các cơ sở đào tạo.


    Theo báo Bưu điện Việt Nam số 55 ra ngày 7/7/2008
     
  20. rivalsumo

    rivalsumo Kết nối cộng đồng

    Tham gia ngày:
    2/4/08
    Bài viết:
    1,274
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Giới tính:
    Nam
    Nơi ở:
    Hà Nội
    Kinh nghiệm trọng dụng người tài; tạo cơ hội cho người tài phát triển; chiến lược bồi dưỡng những người lãnh đạo tương lai trong môi trường doanh ngiệp... là những nội dung chính mà vị Giám đốc cấp cao về kinh doanh của IBM chia sẻ trong cuộc nói chuyện với PV VietNamNet. Càng thú vị hơn khi vị giám đốc này vốn là một người gốc Việt...


    Hình dung về ông Bùi Tiến Dũng (tên tiếng Anh là Dzung T. Bui), đồng nghiệp của anh nói vắn tắt: Đó là người gốc Việt thành công nhất tại IBM. Hơn 30 năm làm việc tại tập đoàn CNTT hàng đầu thế giới, ông Dũng liên tục giữ những trọng trách quan trọng, và hiện là Phó Chủ tịch cấp cao phụ trách kiểm soát hiệu quả kinh doanh và tăng trưởng doanh số của IBM. Trong chuyến về thăm Việt Nam vào dịp Tết Mậu Tý vừa qua, ông Dũng có buổi trò chuyện với PV VietNamNet về kinh nghiệm khởi nghiệp, cũng như vấn đề sử dụng nhân tài trong môi trường doanh nghiệp IT.


    Chiến lược nhân lực giúp doanh nghiệp phát triển


    "Mô hình doanh nghiệp tốt phải tạo điều kiện tối đa cho các nhân viên tìm ra đúng năng lực thực sự của họ và cống hiến với khả năng cao nhất mà họ có", ông Dũng nói.


    Ở Việt Nam, tôi nhận thấy một thực tế là đôi khi có người quyết định học theo ngành y, kỹ sư điện tử hay công nghệ, không phải vì đam mê và mong muốn bản thân mà vì muốn có một tương lai đảm bảo về công ăn việc làm và thu nhập. Tại các doanh nghiệp cũng vậy, rất nhiều người đi làm vì "việc chọn người" chứ không phải lựa chọn những công việc yêu thích và có khả năng nhất. Điều này khiến họ làm việc không hiệu quả, hoặc đạt hiệu quả không như năng lực họ có thể cống hiến.


    Cụ thể hơn về những ý trên, ông Dũng cho rằng, một môi trường doanh nghiệp tốt, cần có các chiến lược đúng đắn về nhân lực đảm bảo các yếu tố: Lựa chọn được người có năng lực làm việc cho mình. Đào tạo người tài và "giữ chân" họ.


    "Chỉ nói không sẽ chẳng mang lại hiệu quả gì, tất cả phải có chiến lược cụ thể rõ ràng. Doanh nghiệp phải xây dựng nghiêm túc các tiến trình để nhận biết và tuyển dụng người có năng lực về các lĩnh vực phù hợp, cho họ các cơ hội để tăng thêm các kỹ năng và kinh nghiệm ở nhiều mảng trong khi làm việc, khiến họ nhận ra lĩnh vực có năng lực và say mê nhất. Sau đó là một chiến lược trọng dụng, đãi ngộ và giữ chân người có khả năng làm việc".


    Tạo môi trường cho người tài cống hiến


    Câu chuyện của ông Dũng đề cập rất nhiều đến kinh nghiệm phát triển và bồi dưỡng nhân tài trong môi trường doanh nghiệp của IBM. Một ví dụ sinh động được ông Dũng kể ra từ chính câu chuyện của bản thân:


    Trong thời gian làm việc tại IBM, từ một nhân viên kỹ thuật, xin chuyển sang làm nhân viên bán hàng, ngay khi đạt được hiệu quả làm việc tốt và trình bày mục đích muốn được làm ở vị trí cao hơn, ông đã được cử đi làm việc tại Nam Mỹ và châu Âu trong 4 năm để có thêm kinh nghiệm tại nhiều thị trường khác nhau. Sau đó ông được bổ nhiệm quản lý các thị trường rộng hơn của IBM.


    "Lúc đầu, tôi thường nghĩ mình là một người châu Á nhỏ bé, liệu có thể đại diện cho một tập đoàn hàng đầu như IBM để đi giao dịch và bán hàng với các đối tượng khách hàng trên khắp thế giới? Chính ban lãnh đạo công ty đã nói với tôi rằng: "Đừng băn khoăn về điều đó, hình thức bên ngoài không phải là vấn đề đối với người thực sự có năng lực".


    Ông Dũng cho hay cũng từng nhận được nhiều lời mời từ các doanh nghiệp khác về làm việc cho họ, song ông vẫn quyết định ở lại chỉ vì công việc mà ông đang làm hiện tại vẫn là công việc ông ham thích. Thêm vào đó là một bộ máy làm việc ăn ý và chế độ đãi ngộ phù hợp. Những chính sách phát hiện và tạo điều kiện cho nhân tài, "giữ người tài" như thế luôn đi cùng với chiến lược bồi dưỡng họ cho những vị trí lãnh đạo tương lai.


    "Môi trường doanh nghiệp phải thuận tiện cho những người có năng lực tiến lên. IBM rất chú trọng đến vấn đề này, họ luôn có kế hoạch xây dựng những người lãnh đạo tương lai (future leaders) cho hãng. Chú trọng làm sao cho những người đó có nhiều kinh nghiệm khác nhau chứ không chỉ ở một ngành chuyên môn".


    Ông Dũng nói, tại IBM, đầu năm, mỗi nhân viên đều phải có các bản báo cáo về mục tiêu làm việc, xác định các công việc và hiệu quả cần đạt đến trong năm, theo đó là các kế hoạch thực hiện những mục tiêu đó. Cuối năm, họ lại làm báo cáo xác định lại các mục tiêu đã đề ra và hiệu quả công việc. Có một điểm tương đối khác biệt trong các bản kế hoạch đầu năm, đó là nhân viên buộc phải đưa ra các kế hoạch cụ thể để đạt mục tiêu, đồng thời được khuyến khích nêu lên nguyện vọng và lộ trình thăng tiến, sau bao nhiêu thời gian, sẽ vươn lên làm việc tại vị trí nào, một cách hết sức rõ ràng.


    "Vì khi đó, nếu cần tìm kiếm một người đang là nhân viên lên vị trí cao hơn, ban lãnh đạo trong doanh nghiệp sẽ có rất nhiều căn cứ để xem xét và chuẩn bị các kế hoạch để bồi dưỡng cho người được chọn. Nếu một nhân viên đã đặt mục tiêu cụ thể để vươn lên một vị trí cao hơn trong lĩnh vực đang làm việc tại doanh nghiệp, nghĩa là anh ta đã chuẩn bị các yếu tố để có thể làm tốt công việc đó, hơn là một nhân viên làm tới đâu hay tới đó".


    "Ở Việt Nam, một ông sếp có thể không mấy vui và khá nhạy cảm khi một nhân viên dưới quyền mình nói rằng: "Sau một năm nữa, tôi muốn làm việc ở vị trí mà sếp đang làm!" Nhưng ở các doanh nghiệp nước ngoài, điều đó được coi là một biểu hiện tốt!"


    "Nhưng cuối cùng, khả năng của mỗi cá nhân vẫn là yếu tố quyết định. Hãng có thể tạo cơ hội, mở rộng cánh cửa, nhưng những cá nhân phải nhận thấy và nắm vững cơ hội... Từ chiến lược của doanh nghiệp và các yếu tố cá nhân như vậy sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi cho người tài phát triển và cống hiến tốt nhất!" - Ông Dũng kết luận.


    Không được trọng dụng, người tài trước tiên phải trách chính mình


    Trả lời câu hỏi của PV VietNamNet: có khi nào trong khi làm việc, ông bị cấp trên đánh giá không thỏa đáng hiệu quả công việc và năng lực bản thân so với đồng nghiệp? Rất thẳng thắn, ông Dũng nói: "Nếu bị đánh giá thiếu công bằng so với đồng nghiệp, trước tiên tôi nhận phần lỗi là thuộc về mình. Rất có thể, tôi đã không biết cách thể hiện cho cấp trên biết năng lực mà tôi thực sự có - đó là một sự yếu kém chủ quan của cá nhân tôi".


    Một nguời lãnh đạo có thể không biết hết những công việc và phương pháp mà nhân viên thường ngày cống hiến cho doanh nghiệp, cũng có khi không cần biết. Thế nhưng một người nhân viên làm việc tốt mà không biết cách trình bày vấn đề, hoặc chứng tỏ năng lực của mình trước bộ máy, nghĩa là anh ta kém, dù có thể các kỹ năng này không thuộc về chuyên môn.


    Ông Dũng nói rằng, ông nhận thấy rất nhiều bạn trẻ Việt Nam hiện nay yếu về kỹ năng mềm (soft skill), đó là khả năng thương thuyết, khả năng trình bày vấn đề, làm việc nhóm... Trong khi hoàn toàn có thể tự trang bị các kỹ năng này cho bản thân bằng nhiều cách.


    "Trong quá trình khởi nghiệp của một người trẻ, yếu tố may mắn có tồn tại, cho dù ở môi trường doanh nghiệp có đội ngũ lãnh đạo sáng suốt nhất chăng nữa. Tôi thì cho rằng, bản thân chúng ta phải tạo ra may mắn chứ không thể ngồi chờ nó".


    "Mục tiêu" thiếu "kế hoạch", sẽ chỉ là "mơ ước"


    "Tôi vẫn thường có bốn lời khuyên cho các nhân viên trẻ của mình" - ông Dũng nói - "Để thành công và luôn thăng tiến trong công việc, thứ nhất, phải luôn đặt hiệu quả công việc lên hàng đầu. Nói gì thì nói, đây vẫn là thước đo trực tiếp nhất về năng lực của mỗi người. Hãy luôn làm tốt công việc chuyên môn chính mà anh được giao và tạo ra giá trị cao nhất có thể.


    Thứ hai, phải có mục tiêu rõ ràng cho con đường sự nghiệp của mình, và sau đó, có một lộ trình rõ ràng cho mục tiêu đó. Đấy là những kế hoạch cụ thể được chuẩn bị để hoàn thành các mục tiêu chia nhỏ theo từng giai đoạn chẳng hạn. Nếu không có kế hoạch cụ thể, mục tiêu sẽ chỉ là mơ ước khó có thể thành hiện thực.


    Thứ ba, là luôn tìm cách bổ sung và hoàn thiện các kỹ năng cho bản thân. Kể cả trong lĩnh vực chuyên môn hay các kỹ năng cần thiết như ngoại ngữ, các kỹ năng mềm... Thực tế là tôi nhận thấy một nhân viên giỏi về chuyên môn của tôi đã không thăng tiến nhanh bằng một nhân viên khá về chuyên môn, nhưng có thêm các kỹ năng mềm tương đối tốt.


    Thứ tư, là không ngừng xây dựng các mối quan hệ với những người có khả năng ảnh hưởng đến công việc của mình. Bao gồm cả những người trong nội bộ doanh nghiệp, sếp, các đồng nghiệp ngang hàng hay bộ máy dưới quyền, và cả những mối quan hệ bên ngoài.


    Theo ông Dũng, với các bạn trẻ chưa ra trường, việc sẽ được làm những công việc mình đam mê và giữ được sự say mê đó là rất quan trọng. Khi nghe ở Việt Nam có nhiều bạn sinh viên CNTT than phiền rằng, do trình độ nền IT nước nhà phát triển chưa theo kịp các nước tiên tiến, quá trình học trong trường ĐH, các bạn không có điều kiện nhìn thấy các kiến thức được học áp dụng vào thực tế trước mắt như thế nào khiến nhiều người cảm thấy xa vời, mất đi niềm đam mê. Ông Dũng cho rằng điều này có thể khắc phục bằng nhiều cách, kể cả việc học hỏi qua mạng, hay thậm chí tìm cách đi ra các thị trường phát triển hơn để học hỏi, sau đó quay về nước làm việc.


    "Các bạn trẻ hãy kiên nhẫn theo đuổi mục tiêu của mình, các bạn còn tương lai, không nên quá nóng vội. Tiếp đó, không ngừng tự bổ sung các kỹ năng của mình. Chỉ có không ngừng tự tăng giá trị của bản thân, chúng ta mới nhìn thấy những cơ hội mới. Một điều nữa cũng rất quan trọng là việc tạo ra và linh hoạt nắm bắt các cơ hội tốt cho sự nghiệp bản thân".


    Lí lịch trích ngang


    Ông Bùi Tiến Dũng (tên tiếng Anh là Dzung T. Bui), sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn. Năm 17 tuổi, ông rời Việt Nam sang định cư tại Mỹ, bốn năm sau tốt nghiệp Thạc sỹ loại xuất sắc chuyên ngành Điện - điện tử tại ĐH Minesota - Tiểu bang Minesota - Hoa Kỳ. Sau đó làm việc tại Tập đoàn IBM trong suốt ba mươi năm cho đến nay.


    Khởi nghiệp là một kỹ sư thiết kế điện tử làm việc thuần túy về kỹ thuật, tại phòng thí nghiệm Rochester của IBM. Sau một năm, nhận thấy sở thích và năng lực bản thân phù hợp với lĩnh vực bán hàng, ông Dũng đã xin chuyển qua làm về martketing và tiêu thụ sản phẩm (sales).


    Từ sau đó, ông Dũng liên tục được đề bạt và đảm nhiệm những trọng trách lớn trong mảng kinh doanh sản phẩm của tập đoàn IBM, từ Phó Chủ tịch phụ trách thị trường Mỹ Latin, Tổng giám đốc Sales và Marketing châu Mỹ, Giám đốc điều hành phụ trách chuỗi cung ứng, Tổng giám đốc phụ trách giải pháp CNTT... và hiện là Phó Chủ tịch cấp cao phụ trách kiểm soát hiệu quả kinh doanh và tăng trưởng doanh số của tập đoàn IBM.


    Theo Vietnamnet
     

Chia sẻ trang này

Share